Hệ thống Robot vận chuyển y tế - VIBOT
Tháng 4/2020, trước sự bùng phát của đại dịch COVID-19, Bộ Khoa học và công nghệ (KH&CN) đã giao Học viện Kỹ thuật quân sự khẩn trương triển khai đề tài KH&CN độc lập cấp quốc gia “Nghiên cứu, thiết kế chế tạo hệ thống robot y tế vận chuyển trong khu cách ly bệnh truyền nhiễm có nguy cơ cao”
Hệ thống robot y tế vận chuyển - VIBOT có chức năng thay thế nhân viên y tế vận chuyển các giá đựng đồ ăn, thuốc men, nhu yếu phẩm và các đồ vật khác từ khu vực tập kết ở ngoài khu cách ly đến các buồng bệnh trong khu cách ly để cung cấp cho người bệnh; vận chuyển giá đựng rác đến các buồng bệnh để nhận rác và ra khu tập kết rác thải; di chuyển đến các buồng bệnh để y, bác sĩ, người nhà ở ngoài khu cách ly giao tiếp từ xa với bệnh nhân.
Từ tháng 4/2020, robot thế hệ thứ nhất Vibot-1 được nhóm nghiên cứu của Học viện Kỹ thuật Quân sự nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống robot y tế vận chuyển VIBOT-1 gồm một trung tâm giám sát, điều khiển và một robot di chuyển theo đường dẫn có từ tính nhằm hỗ trợ hoặc thay thế một phần nhân viên y tế và tạp vụ trong một không gian hạn chế có nguy cơ lây nhiễm cao, đặc biệt là khu vực cách ly.
Sau 2 tuần thực hiện, hệ thống VIBOT-1 đã được chế tạo, lắp đặt và triển khai tại Bệnh viện Bắc Thăng Long, Hà Nội để phục vụ người nghi nhiễm COVID-19.
Sau một thời gian cải tiến, robot thế hệ thứ hai, Vibot-2 đã ra đời và hoạt động trong nhiều môi trường với 5 robot và 1 trung tâm giám sát được thiết kế, chế tạo với nhiều tính năng thông minh hơn như khả năng tự xây dựng bản đồ, tự định vị và thiết lập lộ trình hoạt động, di chuyển an toàn vào/ra khu vực được chỉ định để thực hiện nhiệm vụ mà không cần sự hỗ trợ nào từ bên ngoài; khả năng phát hiện và dừng hoặc vòng tránh các loại vật cản cố định hoặc di động để đến được các vị trí đã được xác định trước; khả năng phối hợp giữa các robot khi thực hiện cùng một nhiệm vụ trên cùng một sàn.
Ở giai đoạn 2, hệ thống còn được phát triển thêm 2 giao thức điều khiển robot là giám sát, điều khiển robot từ thiết bị cầm tay có kết nối wifi hoặc điều khiển trực tiếp trên màn hình của robot. Chính vì vậy, việc mở rộng phạm vi hoạt động của robot hoặc bổ sung số lượng robot để hoạt động theo nhóm có thể được thực hiện dễ dàng.
Sau một năm thực hiện, tháng 4/2021, hệ thống VIBOT-2 đã được lắp đặt, vận hành thử nghiệm để đánh giá các tính năng kỹ thuật tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Ngay sau đó, từ cuối tháng 4/2021, hệ thống VIBOT-2 gồm một trung tâm giám sát, điều khiển và 3 robot đã được triển khai tại khu vực cách ly, điều trị bệnh nhân COVID-19 của Bệnh viện Bạch Mai cơ sở 2 (Phủ Lý, Hà Nam). Tại đây, hệ thống được triển khai trên 3 tầng nhà của khu Zone-6 để phục vụ hơn 150 (có thời điểm gần 200) bệnh nhân COVID-19.
Cuối tháng 5/2021, trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19 tại Bắc Giang, Học viện KTQS đã nhanh chóng thiết lập bổ sung một trung tâm giám sát, điều khiển và rút 2 robot đang chạy thử nghiệm kỹ thuật tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 về làm công tác chuẩn bị và triển khai tại khu vực điều trị bệnh nhân của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang. Tại đây, hệ thống VIBOT-2 đã hỗ trợ điều trị hàng trăm bệnh nhân, góp phần giảm tải cho nhân viên y tế, tránh lây nhiễm chéo trong khu vực cách ly.
Không dừng lại ở đó, cuối tháng 7/2021, trong khi tình hình dịch bệnh tại TPHCM diễn biến phức tạp, còn tại miền Bắc cơ bản được kiểm soát, Học viện KTQS đã chủ động xin ý kiến Bộ Quốc phòng, Bộ KH&CN rút hệ thống VIBOT-2 đang triển khai tại Bệnh viện Bạch Mai về để hỗ trợ phòng chống dịch tại Bệnh viện dã chiến số 7, TP. Thủ Đức, Tp.HCM.
Qua quá trình sử dụng, các y, bác sĩ tại Bệnh viện dã chiến số 7, TP. Thủ Đức, Tp.HCM đã đánh giá cao về khả năng hoạt động hoạt động trơn tru của hệ thống VIBOT-2. Trước đây, khi chưa có robot hỗ trợ, mỗi ngày một nhóm hậu cần khoảng 6-7 người sẽ mất gần 2 giờ đồng hồ để phát cơm cho khoảng 10 tầng của bệnh viện. Hiện mỗi robot sẽ phụ trách 4-5 tầng, hoạt động liên tục trong khoảng một giờ đồng hồ là đã có thể phát hết cơm cho các phòng bệnh.
Ngày 23/7, Hội đồng KH&CN Tư vấn đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia đã họp, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ đạt mức xuất sắc và kiến nghị tiếp tục hoàn thiện công nghệ, đầu tư sản xuất thêm các hệ thống VIBOT để phục vụ phòng, chống dịch.
Có thể thấy, hệ thống robot y tế vận chuyển - VIBOT là kết quả thành công quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong lúc dịch bệnh đang diễn biến hết sức phức tạp trên toàn thế giới, khẳng định trình độ của các nhà khoa học Việt Nam. Những kết quả trên cũng cho thấy sự vào cuộc mạnh mẽ của ngành Khoa học và Công nghệ trong công tác phòng, chống dịch bệnh và chứng minh khoa học và công nghệ Việt Nam đã từng bước đủ năng lực để giải quyết các “bài toán” của đất nước.
Hoàng Anh