Nghiên cứu đa dạng nguồn tài nguyên cây cảnh tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
Luận văn sau đại học của tác giả Đặng Thị Thúy Bình, thực hiện trong năm 2024, tập trung vào việc khảo sát và đánh giá sự đa dạng nguồn tài nguyên cây cảnh tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Mục tiêu chính của luận văn là xác định thành phần loài cây cảnh hiện có trên địa bàn, đồng thời đánh giá giá trị sử dụng ngoài công dụng làm cảnh, từ đó góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu, bảo tồn và phát triển cây xanh đô thị.
Trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 2023 đến tháng 7 năm 2024, thông qua 7 đợt khảo sát thực địa và lấy mẫu, tác giả đã thu thập và phân tích dữ liệu để đưa ra cái nhìn tổng quan về sự đa dạng sinh học của nguồn tài nguyên cây cảnh trên địa bàn thành phố. Kết quả nghiên cứu đã phản ánh bức tranh toàn diện về sự đa dạng sinh học của cây cảnh tại địa phương.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, về thành phần loài, tổng cộng có 225 loài cây cảnh được ghi nhận tại thành phố Thủ Dầu Một. Các loài này thuộc 180 chi, 69 họ và phân bố trong bốn ngành thực vật chính. Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) chiếm ưu thế vượt trội với 212 loài, tiếp theo là ngành Dương xỉ (Pteridophyta) với 7 loài, ngành Thông (Pinophyta) với 5 loài và ngành Tuế (Cycadophyta) với chỉ 1 loài. Xét theo họ, họ Ráy (Araceae) có số loài phong phú nhất với 17 loài, chiếm 7,56% tổng số loài. Các họ tiếp theo gồm Trúc đào (Apocynaceae) với 16 loài (7,11%), Cau (Arecaceae) với 15 loài (6,67%), Đậu (Fabaceae) với 14 loài (6,22%), Măng tây (Asparagaceae) với 13 loài (5,78%), Dâu tằm (Moraceae) với 11 loài (4,89%) và Cúc (Asteraceae) với 10 loài (4,44%). Những họ còn lại có số loài dao động từ 1 đến 6.
Cây cảnh tại thành phố còn thể hiện sự phong phú về dạng sống. Nhóm cây thân thảo chiếm tỉ lệ lớn nhất với 86 loài, tương đương 38,22% tổng số loài. Nhóm cây bụi và cây bụi trườn có 73 loài (32,44%), cây gỗ nhỏ có 27 loài (12%), cây gỗ lớn gồm 20 loài (8,89%), nhóm dây leo với 14 loài (6,22%) và cây phụ sinh là nhóm ít phổ biến nhất với 5 loài (2,23%). Xét theo môi trường sống, có 23 loài được trồng trong nhà, 215 loài được trồng ngoài trời và 12 loài có thể thích nghi ở cả hai môi trường, cho thấy sự linh hoạt trong sử dụng cây cảnh ở các không gian khác nhau.
Yếu tố thẩm mỹ là tiêu chí quan trọng trong việc lựa chọn cây cảnh. Theo đó, những loài có hoa hoặc lá bắc đẹp được trồng phổ biến nhất với 112 loài, tiếp theo là các loài có lá đẹp với 104 loài. Nhóm cây có dáng thế đặc biệt gồm 51 loài, còn nhóm cây có quả đẹp chỉ chiếm 10 loài. Các loài hoa hoặc lá bắc rực rỡ thường thu hút thị giác, nhưng cần kỹ thuật chăm sóc cao để đảm bảo cây nở hoa đúng mùa. Ngược lại, cây có lá đẹp dễ chăm sóc hơn và thường được ưu tiên vì khả năng tạo bóng mát. Những cây có dáng đẹp cần nhiều thời gian chăm sóc, sự đam mê và óc thẩm mỹ trong việc tạo thế. Trong khi đó, cây cảnh có quả thường ít được trồng vì lý do an toàn và vệ sinh, do quả rụng dễ gây ô nhiễm và thu hút côn trùng.
Màu sắc hoa và lá bắc cũng là tiêu chí thu hút người trồng. Số loài có màu trắng chiếm tỉ lệ cao nhất với 34 loài. Tiếp đến là các màu vàng (29 loài), tím (28 loài), đỏ (22 loài), hồng (21 loài) và cam (12 loài). Nhóm có màu xanh là ít phổ biến nhất với chỉ 3 loài, gồm Cẩm tú cầu (xanh lam), Mai xanh và Chuỗi ngọc xanh (xanh lá cây).
Cây cảnh được trồng ở nhiều loại địa điểm khác nhau trong thành phố, phản ánh sự phổ biến rộng rãi của nguồn tài nguyên này. Các hộ dân cư trồng 86 loài, cơ sở kinh doanh có 80 loài, cơ quan hành chính nhà nước có 73 loài, công viên ghi nhận 59 loài, đường phố có 51 loài, cơ sở tôn giáo 50 loài, khu chung cư có 27 loài và khu công nghiệp hoặc công ty ghi nhận 20 loài.
Ngoài giá trị thẩm mỹ, nhiều loài cây cảnh còn mang những giá trị sử dụng khác. Có 70 loài có tác dụng dược liệu, 30 loài có thể dùng làm thực phẩm, 4 loài cung cấp nguyên liệu cho sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, và 2 loài có khả năng cung cấp tinh dầu. Ngoài ra, có 56 loài có khả năng tạo bóng mát, đóng góp vào việc điều hòa vi khí hậu đô thị. Tuy nhiên, cũng có 10 loài cây cảnh được ghi nhận là có độc, ví dụ như lá cây bồ đề có thể gây sảy thai, hạt và lá đậu biếc có thể gây xổ, hay rễ cây dừa cạn có thể dẫn đến hiện tượng lạc thai, do đó cần được quản lý và sử dụng thận trọng.
Một số loài cây cảnh tại địa phương còn có giá trị bảo tồn cao. Theo Sách đỏ Việt Nam (2007), có hai loài được liệt kê là Bàng vuông (Barringtonia asiatica) và Thiên tuế lược (Cycas pectinata), đều ở cấp độ sắp nguy cấp. Theo Danh lục đỏ IUCN (2023.1), có 83 loài cây cảnh được đánh giá với các cấp độ bảo tồn khác nhau: 1 loài ở cấp độ cực kỳ nguy cấp (CR) là Cau sâm banh (Hyophorbe lagenicaulis), 1 loài nguy cấp (EN) là Giáng hương Ấn (Pterocarpus indicus), 4 loài sắp nguy cấp (VU), 3 loài gần bị đe dọa (NT), và 74 loài được xếp vào nhóm ít quan tâm (LC).
Về cây kiểng cổ theo phong cách Nam Bộ, thành phố hiện có hai loài tiêu biểu là Mai chiếu thủy (Wrightia religiosa) thuộc họ Trúc đào và Sanh (Ficus benjamina) thuộc họ Dâu tằm. Hai loài cây này thường được tạo dáng theo chủ đề Tam cang và Ngũ thường - những giá trị văn hóa truyền thống, trong đó cây mẹ có năm tàn tượng trưng cho Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, còn cây con có ba tàn tượng trưng cho đạo vua tôi, đạo vợ chồng và đạo cha con.
Thành phố Thủ Dầu Một cũng ghi nhận 23 loài cây được trồng dưới hình thức bonsai, thuộc 19 chi và 14 họ. Trong đó, họ Dâu tằm có số lượng loài nhiều nhất với 7 loài (chiếm 30,43%), họ Đậu có 3 loài (13,04%), họ Cam có 2 loài (8,70%) và các họ còn lại mỗi họ có 1 loài.
Kết quả nghiên cứu không chỉ cung cấp một bức tranh toàn diện về hiện trạng cây cảnh tại thành phố Thủ Dầu Một mà còn mang lại cơ sở dữ liệu khoa học quan trọng phục vụ công tác tra cứu, giảng dạy, trưng bày và phát triển cây xanh cảnh quan đô thị. Bộ sưu tập mẫu vật và hình ảnh được thu thập không chỉ có giá trị nghiên cứu mà còn là nguồn tư liệu thiết thực cho học tập, trưng bày và ứng dụng thực tiễn. Những thông tin thu được về các loài cây có giá trị quý hiếm, cây có độc, cây có giá trị dược liệu và thực phẩm sẽ là căn cứ quan trọng để cá nhân, tổ chức và chính quyền địa phương xây dựng các biện pháp khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên cây cảnh một cách hợp lý, bền vững trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay.
Nguyễn Tính
Nguồn LVLA: "Nghiên cứu đa dạng nguồn tài nguyên cây cảnh tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương".
Xem toàn văn tại Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Dương