Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành và hiệu quả can thiệp về sàng lọc trước sinh ở phụ nữ mang thai tại huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương năm 2023-2024
Đề tài nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc Huỳnh Nga tiến hành thực hiện năm 2024 tại trường Đại học Y Dược Cần Thơ với các mục tiêu xác định và đánh giá tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng về sàng lọc trước sinh ở phụ nữ mang thai, từ đó có những can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe trước sinh, nâng cao kiến thức về sàng lọc trước sinh và giảm tỷ lệ dị tật ở thai nhi tại huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan tài liệu
Sàng lọc trước sinh là một quy trình chăm sóc thai kỳ thiết yếu, nhằm đánh giá nguy cơ thai nhi mắc các bất thường nhiễm sắc thể và dị tật bẩm sinh ngay từ giai đoạn sớm. Đây là biện pháp hiện đại trong y học dự phòng, có ý nghĩa kinh tế xã hội to lớn góp phần nâng cao chất lượng dân số, cải tạo giống nòi. Quá trình này không chỉ giúp giảm gánh nặng y tế và xã hội mà còn giúp cha mẹ có sự chuẩn bị tâm lý và tài chính cần thiết nếu thai nhi được chẩn đoán mắc bệnh.
Các phương pháp sàng lọc hiện nay rất đa dạng, bao gồm cả xét nghiệm sinh hóa, siêu âm và xét nghiệm DNA không xâm lấn. Sàng lọc sinh hóa được thực hiện qua các xét nghiệm máu mẹ như Double Test (quý I, đo free β-hCG và PAPP-A) và Triple Test (quý II, đo AFP, hCG và uE3). Những xét nghiệm này kết hợp với các yếu tố như tuổi mẹ, cân nặng và kết quả siêu âm để tính toán nguy cơ.
Siêu âm đóng vai trò không thể thiếu trong sàng lọc. Đo độ mờ da gáy (NT) vào quý I là một dấu hiệu quan trọng gợi ý nguy cơ hội chứng Down và dị tật tim. Ngoài ra, siêu âm hình thái học thai nhi vào quý II giúp phát hiện các dị tật cấu trúc lớn ở các cơ quan.
Phương pháp sàng lọc tiên tiến nhất hiện nay là xét nghiệm DNA ngoại bào của thai nhi trong máu mẹ (NIPT). Với độ chính xác cao vượt trội so với các phương pháp sinh hóa truyền thống, NIPT phân tích các mảnh DNA tự do của thai nhi trong máu mẹ để phát hiện các bất thường số lượng nhiễm sắc thể phổ biến như Trisomy 21, 18, 13. NIPT có thể thực hiện từ tuần thứ 9-10 của thai kỳ, giúp giảm đáng kể số lượng các thủ thuật chẩn đoán xâm lấn không cần thiết.
Nếu kết quả sàng lọc cho thấy nguy cơ cao, thai phụ sẽ được tư vấn thực hiện các phương pháp chẩn đoán xâm lấn để xác định chính xác tình trạng thai nhi, điển hình là chọc ối (quý II) hoặc sinh thiết gai rau (CVS) (quý I). Các thủ thuật này tuy có rủi ro nhỏ nhưng cung cấp kết quả chẩn đoán xác định.
Tại Việt Nam, chương trình sàng lọc trước sinh và sơ sinh được thực hiện rất muộn so với các nước trong khu vực và thế giới, thời gian đầu chủ yếu thực hiện tại các bệnh viện lớn như bệnh viện Phụ sản Từ Dũ (1999), bệnh viện Phụ sản Trung ương (2002),… Theo báo cáo của Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình Dương, số bà mẹ được sàn lọc trước sinh toàn tỉnh nhìn chung còn tương đối thấp với tỷ lệ năm 2021 chiếm 43,5%, năm 2022 chiếm 76,7%.
Một số yếu tố dịch tễ liên quan đến sàng lọc trước sinh trong nhóm phụ nữ mang thai như: trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, yếu tố gia đình, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, tiền căn sản khoa,... Những yếu tố này ảnh hưởng đến tỷ lệ sàng lọc không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Qua các nghiên cứu và khảo sát tại Thổ Nhĩ Kỳ, Iceland, Đan Mạch, Vương quốc Anh về các yếu tố liên quan đến sàn lọc cho thấy kiến thức, kinh nghiệm giáo dục nhiều hơn thì có nhiều lựa chọn tốt hơn và tỷ lệ tiếp thu cao hơn.
Để nâng cao kiến thức sàn lọc trước sinh, mô hình can thiệp cộng đồng ra đời mang lại nhiều kết quả khả quan với tỷ lệ sàng lọc trước sinh tăng từ 15%( năm 2015) lên 50%( năm 2020). Tuy nhiên, các mô hình này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về nhân lực và định mức phân bố cho các hoạt động truyền thông tại trường học và cộng đồng còn chưa cao.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đề tài này tập trung vào đối tượng là phụ nữ mang thai từ 8-11 tuần đang cư trú trên địa bàn huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương với phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Các đối tượng này có đặc điểm đa dạng về độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, hoàn cảnh gia đình và tiền sử bệnh lý cá nhân và gia đình, BMI,…
3. Kết quả nghiên cứu
Trong 360 phụ nữ khảo sát, tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng về sàng lọc trước sinh chiếm tỷ lệ lần lượt là 43,3%, 31,1%, 43,1%. Thai phụ có thu nhập từ 4.680.000 – 9.630.000 đồng có kiến thức cao gấp 1,921 (KTC 95%: 1,125-3,278) so với thai phụ có thu nhập <4.680.000 đồng (<0,05). Thai phụ có trình độ học vấn cao, có bảo hiểm y tế, kiến thức đạt và thực hành đạt có tỷ lệ thực hành đạt cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm còn lại. Sau can thiệp, tỷ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng về sàng lọc trước sinh tăng cao hơn so với trước can thiệp, lần lượt là 96,5% (CSHQ: 120,5%, p<0,001), 78,1% (CSHQ: 150,9%, p<0,001), 92,2% (CSHQ: 114,2%, p<0,001)
KẾT LUẬN
Trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh chiếm khoảng 2 – 3%, tương đương khoảng 3 triệu trẻ được sinh ra mỗi năm trên thế giới.Trẻ dị tật bẩm sinh có tỷ lệ nhập viện và chi phí điều trị cao. Thực hiện sàng lọc trước sinh có hiệu quả trong việc phát hiện sớm những bất thường thai và có hướng xử trí kịp thời, giảm trẻ sinh ra bị dị tật.
Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị cụ thể cho từng đối tượng. Đối với trung tâm y tế, cần có kế hoạch mở rộng truyền thông để cải thiện hiểu biết về sàng lọc trước sinh cho phụ nữ thông qua nhiều hình thức như hoạt động nhóm, tuyên truyền trong cộng đồng,… Ngoài ra, cần tăng cường thực hiện các dịch vụ sàng lọc, giúp đối tượng thai phụ được tiếp cận dịch vụ một cách nhanh chóng và thuận lợi hơn. Đối với cộng tác viên dân số, cần tăng cường công tác giáo dục gia đình về sàng lọc trước sinh cho các thai phụ tại gia, động viên, khuyến khích thai phụ sàng lọc trước sinh giúp phát hiện sớm và dự phòng các dị tật bẩm sinh sớm.
Nguồn LVLA: " Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành và hiệu quả can thiệp về sàng lọc trước sinh ở phụ nữ mang thai tại huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương năm 2023-2024". Xem toàn văn tại Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Dương
Quí Dương