Xây dựng mô hình canh tác lúa hữu cơ kết hợp truy xuất nguồn gốc điện tử và liên kết tiêu thụ tại TP. Tân Uyên, Bình Dương: Hướng đi bền vững cho nông nghiệp địa phương
Dự án "Xây dựng mô hình canh tác lúa theo hướng hữu cơ, áp dụng truy xuất nguồn gốc điện tử và liên kết tiêu thụ sản phẩm tại TP. Tân Uyên, Bình Dương," do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Bền vững chủ trì từ tháng 02/2023 đến tháng 12/2024, đặt mục tiêu chuyển đổi phương thức canh tác lúa truyền thống sang hướng hữu cơ, đồng thời ứng dụng công nghệ số để nâng cao giá trị sản phẩm và hiệu quả kinh tế cho nông dân. Với tổng vốn đầu tư 4,712 tỷ đồng, dự án đã triển khai đồng bộ các giải pháp từ đánh giá vùng sản xuất, xây dựng mô hình, hoàn thiện quy trình kỹ thuật, đến chuyển giao công nghệ và kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Tóm tắt kết quả đạt được
Dự án đã thực hiện các nội dung nghiên cứu và triển khai một cách bài bản, khoa học tại hai địa bàn trọng điểm là xã Bạch Đằng và xã Thạnh Hội, TP. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, mang lại những kết quả cụ thể và có giá trị thực tiễn cao.
1. Phân tích, đánh giá mối nguy gây ô nhiễm và xác định vùng sản xuất lúa hữu cơ
Công tác đánh giá điều kiện sản xuất là bước đi tiên quyết. Kết quả kiểm nghiệm 8 mẫu đất (4 mẫu/xã) cho thấy các chỉ tiêu kim loại nặng và dư lượng thuốc BVTV đều đạt yêu cầu sản xuất hữu cơ theo QCVN 03-MT:2015/BTNMT. Tương tự, 8 mẫu nước tưới (4 mẫu/xã, bao gồm cả nước sông và nước giếng) cũng cho kết quả phân tích đạt yêu cầu theo QCVN 08:2008/BTNMT và QCVN 09-MT:2015/BTNMT. Đánh giá chung khẳng định đất đai tại hai xã chưa bị ô nhiễm, tuy nhiên, nguồn nước sông cần được giám sát định kỳ do nguy cơ ô nhiễm tiềm ẩn. Vị trí địa lý của hai xã là cù lao sông Đồng Nai, cách biệt với các nguồn gây ô nhiễm lớn, là điều kiện thuận lợi.
Dựa trên các phân tích này, dự án đã hoàn thành 02 bản đồ khoanh vùng sản xuất lúa hữu cơ. Tại xã Bạch Đằng, diện tích khoanh vùng là 80,22 ha, chia thành 3 khu vực. Tại xã Thạnh Hội, diện tích khoanh vùng là 15,06 ha, gồm 2 khu vực. Các vùng này đều đảm bảo các yếu tố về tự nhiên, thổ nhưỡng và cách ly nguồn ô nhiễm, phù hợp cho phát triển lúa hữu cơ.
2. Xây dựng mô hình chuyển đổi sản xuất lúa vô cơ sang sản xuất hữu cơ
Mô hình được triển khai trên 30 ha với 37 hộ nông dân tham gia (21 hộ ở Bạch Đằng, 16 hộ ở Thạnh Hội). Dự án đã hỗ trợ thành lập 01 THT trồng lúa hữu cơ tại Thạnh Hội và hợp tác với HTX dịch vụ nông nghiệp Bạch Đằng. Cả hai tổ chức đều được xây dựng quy chế hoạt động và hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn hữu cơ.
Quy trình kỹ thuật hữu cơ được áp dụng nghiêm ngặt, sử dụng giống ST25 và OM4900, làm đất kỹ, phơi ải, xử lý rơm rạ bằng chế phẩm sinh học, quản lý cỏ dại thủ công và bón phân hữu cơ theo quy trình chi tiết (Fertiplus 65 OM, lân nung chảy, vôi, Humic Acid Powder, DS80 Super, đạm cá IMO). Thuốc BVTV sinh học, thảo mộc được sử dụng hạn chế khi cần thiết. Đã có 5 vụ sản xuất tại Bạch Đằng và 3 vụ tại Thạnh Hội.
Phân tích 6 mẫu lúa thành phẩm cho thấy không phát hiện kim loại nặng (Chì, Cadimi) và dư lượng 202 hoạt chất BVTV, đảm bảo an toàn thực phẩm. Về năng suất, tại Bạch Đằng, năng suất mô hình trung bình 5 vụ đạt 5,29 tấn/ha, thấp hơn đối chứng 11,97%; tuy nhiên, chênh lệch này giảm dần qua các vụ (từ 15,11% ở vụ 1 xuống 9,85% ở vụ 5). Tại Thạnh Hội, năng suất mô hình trung bình 3 vụ đạt 5,58 tấn/ha, thấp hơn đối chứng 12,7%; chênh lệch cũng giảm từ 15,85% (vụ 1) xuống 10,35% (vụ 3). Sự sụt giảm năng suất ban đầu là tất yếu trong quá trình chuyển đổi sang hữu cơ. Tình hình sâu bệnh hại trong mô hình hữu cơ giảm rõ rệt so với đối chứng.
Về hiệu quả kinh tế, tại Bạch Đằng, sau 3 vụ đầu có lợi nhuận thấp hơn, đến vụ 4 và 5, lợi nhuận mô hình đã cao hơn đối chứng lần lượt là 14,95% và 15,84%; tổng lợi nhuận 5 vụ của mô hình (175,388 triệu đồng/ha) tương đương đối chứng (172,250 triệu đồng/ha). Tại Thạnh Hội, sau vụ 1 có lợi nhuận thấp hơn, vụ 2 tương đương, đến vụ 3 lợi nhuận mô hình cao hơn đối chứng 9,97%; tổng lợi nhuận 3 vụ của mô hình (104,747 triệu đồng/ha) gần bằng đối chứng (106,580 triệu đồng/ha).
Kết thúc giai đoạn, Công ty CP Giám định và Khử trùng FCC đã đánh giá và cấp giấy chứng nhận hoàn thành giai đoạn chuyển đổi hữu cơ lúa cho HTX Bạch Đằng (20 ha) và THT Thạnh Hội (10 ha) vào ngày 25/12/2024.
3. Xây dựng mô hình áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử cho sản phẩm lúa thông qua mã QRcode
Dự án đã thành công xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử cho 37 hộ nông dân tham gia, mỗi hộ được cấp tài khoản trên ứng dụng Facefarm và mã QRcode riêng. Công nghệ Blockchain được ứng dụng để đảm bảo tính toàn vẹn và minh bạch của dữ liệu sản xuất. Mặc dù ban đầu có khó khăn do nông dân chưa quen công nghệ, nhưng sau quá trình đào tạo, 100% hộ đã thành thạo việc cập nhật nhật ký sản xuất điện tử, từ khâu làm giống đến thu hoạch.
4. Hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất lúa theo tiêu chuẩn hữu cơ, Chuyển giao Kỹ thuật và Liên kết Tiêu thụ
Dự án đã biên soạn thành công "Quy trình kỹ thuật sản xuất lúa theo tiêu chuẩn hữu cơ" phù hợp với điều kiện địa phương, dễ hiểu, dễ áp dụng, có hình ảnh minh họa. Quy trình này bao quát từ chọn vùng, quản lý đất, vật tư, lao động, đến kỹ thuật canh tác, thu hoạch và xử lý sau thu hoạch. Đồng thời, quy trình sản xuất phân bón hữu cơ (đạm cá, đạm ốc, phân từ cây chuối, phân bón lá) và thuốc trừ sâu thảo mộc bằng men vi sinh bản địa (IMO) cũng được chuẩn hóa và chuyển giao.
Công tác chuyển giao kỹ thuật được thực hiện sâu rộng:
- Tập huấn về IMO: 02 lớp tập huấn (80 học viên) tại Bạch Đằng và Thạnh Hội giúp 100% nông dân nắm vững và thực hành quy trình nhân nuôi, ứng dụng IMO trong sản xuất phân bón, thuốc BVTV hữu cơ.
- Tập huấn quy trình lúa hữu cơ và TXNG: 02 lớp (80 học viên) giúp 100% nông dân nắm bắt quy trình sản xuất và sử dụng hệ thống TXNG.
- Đào tạo kỹ thuật viên: 21 nông dân nòng cốt (Bạch Đằng: 11, Thạnh Hội: 10 – báo cáo ghi Thạnh Hội 9, nhưng tổng vẫn là 21 theo nguồn ) được đào tạo chuyên sâu, 100% nắm vững kỹ thuật để tự áp dụng và hướng dẫn lại cho các nông dân khác.
- Hội thảo đầu bờ: 02 hội thảo (80 người tham dự) giúp nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm trực tiếp từ mô hình, với trên 75% đánh giá tích cực về tính phù hợp và khả năng nhân rộng.
Về liên kết tiêu thụ, HTX Dịch vụ Nông nghiệp Bạch Đằng và THT trồng lúa hữu cơ xã Thạnh Hội đóng vai trò trung tâm trong việc thu mua lúa của các thành viên. Giá thu mua lúa hữu cơ cao hơn thị trường, ví dụ HTX Bạch Đằng mua cao hơn 500-1.500 đồng/kg và bán gạo thành phẩm với giá 33.000-35.000 đồng/kg. THT Thạnh Hội cũng tổ chức thu mua và bán gạo với giá 32.000 đồng/kg. Đặc biệt, dự án đã kết nối và ký hợp đồng nguyên tắc tiêu thụ sản phẩm có thời hạn 5 năm với HTX Thương mại Dịch vụ Nông nghiệp Xuân Tiến (Đồng Nai). Theo đó, lúa giai đoạn chuyển đổi được mua cao hơn thị trường ít nhất 15%, lúa chứng nhận hữu cơ cao hơn ít nhất 30%. HTX Xuân Tiến đã bắt đầu thu mua lúa từ cả hai đơn vị với giá 11.500 đồng/kg vào cuối năm 2024.
Kết luận
Dự án đã khẳng định tính hiệu quả và sự cần thiết của việc chuyển đổi sang nông nghiệp bền vững. Thành công không chỉ dừng lại ở việc hoàn thành các mục tiêu về diện tích, quy trình và chứng nhận sản phẩm, mà quan trọng hơn là đã thay đổi căn bản nhận thức và tập quán canh tác của người nông dân. Việc tạo ra sản phẩm lúa gạo an toàn, chất lượng cao, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng không chỉ bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, môi trường sinh thái mà còn mở ra hướng đi mới giúp nâng cao giá trị hạt gạo và thu nhập cho nông dân Tân Uyên. Với nền tảng kỹ thuật vững chắc được chuyển giao, các mô hình HTX/THT hoạt động hiệu quả và các liên kết thị trường được thiết lập, dự án đã tạo tiền đề quan trọng cho việc nhân rộng mô hình sản xuất lúa hữu cơ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô thị theo định hướng của tỉnh Bình Dương và TP. Tân Uyên, hướng tới một nền nông nghiệp xanh và thịnh vượng.
Ánh Nguyệt
Nguồn KQNC “Xây dựng mô hình canh tác lúa theo hướng hữu cơ, áp dụng truy xuất nguồn gốc điện tử và liên kết tiêu thụ sản phẩm tại TP. Tân Uyên, Bình Dương ". Xem toàn văn tại Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Dương