Bình Dương: 5 năm nỗ lực xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững
Trong giai đoạn 5 năm đầy thử thách (2021-2025), khi thế giới đối mặt với khủng hoảng chính trị, cạnh tranh kinh tế gay gắt và đại dịch COVID-19 gây ảnh hưởng sâu rộng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, tỉnh Bình Dương đã không ngừng nỗ lực và gặt hái được những thành quả đáng khích lệ trong công cuộc xây dựng nông thôn mới (NTM) và giảm nghèo bền vững. Với sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cùng với quyết tâm cao của Đảng bộ, Chính quyền và toàn thể nhân dân trong tỉnh, Bình Dương đã kiên trì duy trì tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân ấn tượng 6,02%/năm, đảm bảo vững chắc an ninh trật tự, và thực hiện hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động.
I. Những thành tựu nổi bật trong xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại Bình Dương trong 5 năm qua đã được triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả, mang lại sự thay đổi rõ nét cho diện mạo nông thôn, đồng thời nâng cao đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
1. Hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng cấp đồng bộ và hiện đại
Mạng lưới giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, với 100% các tuyến đường xã, đường ấp, đường liên ấp, đường ngõ xóm được nhựa hóa, bê tông hóa hoặc cứng hóa. Những con đường này không chỉ được bảo trì định kỳ hàng năm mà còn được trang bị đầy đủ các hạng mục thiết yếu như biển báo, biển chỉ dẫn, hệ thống chiếu sáng và cây xanh, góp phần tạo nên một cảnh quan “sáng, xanh, sạch, đẹp”.
Song song với đó, hệ thống cấp nước sạch nông thôn đã được phủ kín 100% các xã trên địa bàn tỉnh, đảm bảo toàn bộ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh. Đặc biệt, tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia đã lên tới 98,7%, với lượng nước sử dụng tối thiểu đạt 80 lít/người/ngày, vượt xa chỉ tiêu đề ra của Thủ tướng Chính phủ. Cùng với sự phát triển của hệ thống cấp nước, hệ thống lưới điện quốc gia cũng đã phủ kín mọi khu vực nông thôn, vận hành an toàn và cung cấp đủ sản lượng điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân, với tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng điện lưới đạt 99,98%.
Bên cạnh hạ tầng thiết yếu, các công trình văn hóa, thể thao cũng được quan tâm đầu tư đúng mức. 100% các xã đã có nhà văn hóa hoặc hội trường đa năng và sân thể thao, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, thể thao của người dân. Các trung tâm văn hóa xã và nhà văn hóa ấp đều được bố trí trang thiết bị đầy đủ theo quy định. Nhiều Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp huyện được xây dựng đạt chuẩn và có các hoạt động kết nối hiệu quả với các xã. Đặc biệt, các di sản văn hóa trên địa bàn xã được bảo tồn, tu bổ, phục hồi, đồng thời gắn kết với phát triển du lịch nông thôn. Đến nay, 38/38 xã đã đạt tiêu chí văn hóa theo quy định của tỉnh Bình Dương và của Trung ương.
2. Phát triển kinh tế nông thôn gắn với chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao
Ngành nông nghiệp của Bình Dương đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, được cơ cấu lại theo hướng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp đô thị, gắn liền với việc xây dựng các chuỗi giá trị bền vững. Tổng diện tích trồng trọt ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 7.285,5 ha, trong đó có khoảng 600 ha sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ. Đáng chú ý, đã có 284 tổ chức/cá nhân được cấp chứng nhận VietGAP, GlobalGAP với tổng diện tích 1.279 ha. Lũy kế đến thời điểm hiện tại, tỉnh đã cấp 34 mã số vùng trồng cho 18 cơ sở và 13 mã số cơ sở đóng gói cho 10 cơ sở để phục vụ xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Trung Quốc, EU, Anh, Nga, Hoa Kỳ và New Zealand.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, các mô hình ứng dụng chuồng trại kín, trại lạnh đã phát triển mạnh mẽ, mang lại hiệu quả kinh tế cao và giúp kiểm soát tốt dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Chăn nuôi gà ứng dụng công nghệ cao tiếp tục được mở rộng với 149 trang trại và tổng đàn 7.819.010 con, chiếm 66,6% tổng đàn của tỉnh. Tương tự, chăn nuôi heo thịt và heo giống chất lượng cao có 280 trang trại với tổng đàn 728.671 con, chiếm 80,1% tổng đàn. Lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 204 cơ sở chăn nuôi được chứng nhận VietGAP. Sự tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế và cá nhân đầu tư vào sản xuất, khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ ở nông thôn. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn đã chuyển dịch tích cực, góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp và không ngừng cải thiện đời sống người dân.
Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã được triển khai mạnh mẽ, được xác định là giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế nông thôn theo hướng nâng cao nội lực sản xuất và gia tăng giá trị sản phẩm. Đến cuối tháng 12/2024, toàn tỉnh đã có 274 sản phẩm thuộc 106 chủ thể được công nhận đạt từ 3 sao trở lên, trong đó có 4 sản phẩm 4 sao và 270 sản phẩm 3 sao, vượt 53% so với kế hoạch đề ra. Các sản phẩm OCOP đã được tích cực quảng bá thông qua 17 đợt Hội chợ - Triển lãm trong và ngoài tỉnh với 203 lượt đơn vị tham gia, in ấn 9.500 tờ rơi giới thiệu, 40.000 tem OCOP và hỗ trợ xét nghiệm các chỉ tiêu chất lượng. Việc số hóa 100% hồ sơ sản phẩm OCOP và cập nhật trên phần mềm chấm điểm cũng đã đạt chỉ tiêu kế hoạch.
3. Đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng nông thôn mới thông minh
Bình Dương đã tích cực triển khai Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh. Các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện 100% tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9001:2015. Các cơ quan Nhà nước đã sử dụng hộp thư điện tử công vụ, chữ ký số, phần mềm một cửa điện tử, kết nối phần mềm quản lý văn bản liên thông 4 cấp, và cung cấp nhiều dịch vụ công trực tuyến, từng bước đáp ứng yêu cầu dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.
Cơ sở hạ tầng thông tin cũng được đầu tư mạnh mẽ. Hiện nay, 100% xã đều được trang bị hệ thống đài truyền thanh không dây và hơn 1.200 cụm loa trải đều các thôn, ấp, cụm dân cư, đạt tiêu chí số 8 (Thông tin và Truyền thông). Sóng thông tin di động đã phủ 100% địa bàn, với hạ tầng 3G, 4G phủ khắp các khu vực dân cư nông thôn thông qua 3.794 trạm thu phát sóng, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ với chất lượng ngày càng cao. Ngoài ra, các huyện, thành phố đã tích cực kiện toàn và đưa vào hoạt động 588 Tổ công nghệ số cộng đồng với 3.399 thành viên, góp phần nâng cao nhận thức và kỹ năng số cơ bản cho người dân, thúc đẩy chuyển đổi số trong nhiều lĩnh vực.
Trong việc xây dựng nông thôn mới thông minh, tỉnh Bình Dương đã thực hiện thí điểm mô hình "Làng thông minh" trên địa bàn xã Bạch Đằng, thành phố Tân Uyên. Sau ba năm triển khai, xã Bạch Đằng đã đáp ứng 29/39 chỉ tiêu thuộc 18 tiêu chí về xã nông thôn mới thông minh theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
II. Kết quả giảm nghèo bền vững và an sinh xã hội
Chương trình giảm nghèo tại Bình Dương đã được triển khai liên tục và có hiệu quả, với mức chuẩn nghèo của tỉnh cao hơn nhiều lần so với mức chuẩn Trung ương, áp dụng phương pháp tiếp cận chuẩn nghèo đa chiều.
1. Tỷ lệ hộ nghèo giảm ấn tượng
Nhờ những nỗ lực đồng bộ, trong giai đoạn 2021-2025, tổng số hộ nghèo theo chuẩn đa chiều đã giảm đáng kể, đạt 1,06% vào cuối năm 2024. Cụ thể, toàn tỉnh đã giảm được 6.045 hộ nghèo, và đến đầu năm 2025, chỉ còn 4.270 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,06% trên tổng số 404.060 hộ nhân dân. Đáng chú ý, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số toàn tỉnh chỉ còn 0,02% (107 hộ).
2. Các chính sách hỗ trợ đa dạng và hiệu quả
Bình Dương đã chủ động bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương để thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, do không được ngân sách Trung ương hỗ trợ vốn riêng cho giai đoạn 2021-2025. Tổng vốn đầu tư cho xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 đạt trên 12 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách chiếm 72%. Đặc biệt, ngân sách tỉnh đã chi 270.109.226.883 đồng (nguồn vốn sự nghiệp) để thực hiện chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội từ năm 2021 đến nay.
Các chính sách hỗ trợ cụ thể đã được triển khai hiệu quả:
Hỗ trợ giáo dục: Thực hiện miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ ăn trưa cho 12.306 học sinh thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo với tổng kinh phí 29 tỷ 50 triệu đồng. Hội khuyến học tỉnh và các Phòng Lao động Thương binh và Xã hội cấp huyện cũng đã vận động, trao hàng nghìn suất học bổng cho học sinh nghèo hiếu học.
Hỗ trợ y tế: Cấp 75.313 lượt thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo và người mới thoát nghèo, với tổng kinh phí 59 tỷ 470 triệu đồng.
Hỗ trợ nhà ở: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã xây dựng, sửa chữa 425 căn nhà đại đoàn kết và nhà tình thương từ quỹ "Vì người nghèo" và các nguồn vận động khác, với tổng kinh phí 37 tỷ 525 triệu đồng. Chương trình “Xóa nhà tạm, nhà dột nát” trên địa bàn tỉnh đang thực hiện hiệu quả, với 284/436 căn hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ nhà ở, đạt 65,14% kế hoạch năm 2025
Hỗ trợ tín dụng và việc làm: Từ năm 2021 đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân 309 tỷ 961 triệu đồng với 3.570 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay vốn ưu đãi để phát triển kinh tế gia đình. Toàn tỉnh đã đào tạo nghề cho 142.651 người học tại các trường trung cấp, cao đẳng nghề, trong đó 107.352 người đã tốt nghiệp. Hội Bảo trợ Người tàn tật, trẻ mồ côi và bệnh nhân nghèo cũng đã thực hiện mô hình “Dạy nghề gắn tạo việc làm cho người nghèo dựa vào cộng đồng” với 71 người tham gia, tổng kinh phí 626,3 triệu đồng
Truyền thông và thông tin: Sở Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo các cơ quan báo chí, hệ thống thông tin cơ sở tăng cường thời lượng phát sóng, đưa tin phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giảm nghèo bền vững. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức 79 lớp tập huấn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp, và tổ chức Hội nghị đối thoại chính sách giảm nghèo với hơn 10.000 đại biểu tham dự. Các hoạt động truyền thông này đã tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, khuyến khích người nghèo tự vươn lên thoát nghèo.
III. Những khó khăn, thách thức và bài học kinh nghiệm
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia vẫn còn một số khó khăn, hạn chế nhất định.
Thứ nhất, thị trường tiêu thụ và giá cả nông sản không ổn định vẫn là một thách thức lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của nông dân. Công tác xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm OCOP, đặc biệt là những sản phẩm đạt 3 sao và 4 sao, vẫn còn hạn chế. Hiện tại, tỉnh vẫn chưa có sản phẩm OCOP nào đạt chuẩn 5 sao – sản phẩm OCOP Quốc gia.
Thứ hai, một số chính sách hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn gặp nhiều vướng mắc khi triển khai trong thực tiễn, ví dụ như chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hữu cơ hay ứng dụng công nghệ thông minh trong sản xuất.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở các cấp đa số còn kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi và luân chuyển. Trong khi đó, hiệu quả của công tác giảm nghèo lại phụ thuộc rất lớn vào năng lực, kinh nghiệm và sự sâu sát của đội ngũ cán bộ cơ sở đối với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng hộ nghèo, cũng như khả năng huy động nguồn lực từ toàn xã hội để hỗ trợ người nghèo.
Từ thực tiễn triển khai các chương trình trong 5 năm qua, Bình Dương đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu và sâu sắc:
Một là, cần luôn coi trọng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm tốt công tác tư tưởng để vận động nhân dân, tạo sự đồng thuận và huy động mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia. Các cấp ủy, chính quyền địa phương phải thường xuyên theo dõi, gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện xây dựng nông thôn mới, kịp thời ghi nhận những đóng góp của nhân dân và đề xuất khen thưởng cho các tổ chức, cá nhân điển hình tiên tiến.
Hai là, phát triển nông nghiệp bền vững là yếu tố tiên quyết để nâng cao thu nhập cho người dân, từ đó tạo tiền đề vững chắc để huy động nguồn lực trong nhân dân. Cần đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất, đồng thời khuyến khích và hỗ trợ phát triển liên doanh, liên kết trong sản xuất. Đặc biệt, cần quan tâm hình thành và tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã nông nghiệp phát triển, nhất là các hợp tác xã có mô hình liên doanh, liên kết chuỗi hiệu quả.
Ba là, phải luôn lấy người dân làm trọng tâm trong mọi hoạt động. Đối với các công trình xây dựng, đặc biệt là giao thông nông thôn, cần đảm bảo tính công khai, dân chủ trên cơ sở “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng lợi”. Điều này sẽ tạo sự đoàn kết, đồng lòng và khơi dậy sức mạnh tổng hợp của cộng đồng trong việc chung tay góp sức xây dựng nông thôn mới.
Bốn là, cần huy động đa dạng và tổng hợp các nguồn lực từ nhà nước, tổ chức xã hội, cộng đồng và doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình phải được duy trì thường xuyên ở các cấp để kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho địa phương, đảm bảo tiến độ thực hiện theo kế hoạch.
Năm là, cần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở làm công tác giảm nghèo. Việc này sẽ giúp họ tham mưu và thực hiện tốt các chính sách của tỉnh và Trung ương, đảm bảo chính sách đến tay đối tượng thụ hưởng một cách kịp thời và hiệu quả.
IV. Định hướng và nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới
Để khắc phục hiệu quả những hạn chế còn tồn tại, phát huy kịp thời tiềm năng và lợi thế của tỉnh trong công tác xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo, góp phần thực hiện định hướng phát triển đô thị thông minh, hiện đại, tăng trưởng xanh và bền vững, nâng cao chất lượng sống của người dân ngày càng cao, Bình Dương đã và đang đề ra các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm trong thời gian tới.
Một là, các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể - chính trị các cấp cần sớm kiện toàn tổ chức bộ máy và phân công thực hiện các Chương trình sau sắp xếp các đơn vị hành chính. Tiếp tục nâng cao chất lượng phong trào thi đua “Toàn tỉnh chung sức xây dựng nông thôn mới” và phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” ngày càng đi vào chiều sâu, tạo sự lan tỏa trong cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp Nhân dân, nhằm hướng đến mục tiêu cốt lõi là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và thu nhập cho nhân dân.
Hai là, các địa phương, chính quyền cơ sở (sau khi hợp nhất các xã trong quá trình sắp xếp bộ máy) cần triển khai các hướng dẫn của Trung ương đối với các Chương trình Mục tiêu quốc gia trên địa bàn. Đồng thời, rà soát lại các quy hoạch và các tiêu chí xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, xã nông thôn mới thông minh và xã thương mại điện tử phù hợp với định hướng vùng hành chính, vùng đô thị mở rộng trong tương lai. Việc này nhằm thực hiện hiệu quả việc duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt, đầu tư phát triển hạ tầng phục vụ liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản, nhất là giao thông, logistics, cấp điện, nước sạch, viễn thông. Đặc biệt, cần chú trọng và nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao vùng nông thôn.
Ba là, cần phát triển kinh tế nông thôn gắn với chuỗi giá trị, trong đó tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, hữu cơ, thông minh là nhiệm vụ trọng tâm. Hỗ trợ hợp tác xã, doanh nghiệp nông thôn tham gia vào chuỗi giá trị của vùng TP. Hồ Chí Minh. Kết hợp giữa phát triển kinh tế với gìn giữ bản sắc văn hóa nông thôn, bảo tồn và phát triển các sản phẩm truyền thống, sản phẩm đặc sản của địa phương, hình thành các mô hình nông nghiệp sinh thái tạo điểm đến, gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, sinh thái để góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.
Bốn là, tiếp tục huy động các nguồn lực tổng hợp thực hiện Giảm nghèo đa chiều, có sự tham gia, phối hợp của nhà nước, tổ chức xã hội, của cộng đồng và doanh nghiệp. Rà soát chuẩn nghèo mới phù hợp với mức sống và chi phí sinh hoạt tại vùng hành chính, vùng đô thị mở rộng trong tương lai. Tăng cường đào tạo nghề, tạo việc làm cho người nghèo, đặc biệt trong các ngành dịch vụ, công nghiệp phụ trợ phát triển mạnh tại vùng đô thị. Đồng thời, hỗ trợ người nghèo tiếp cận vốn, đất sản xuất, thị trường và tăng cường an sinh xã hội, đảm bảo cho họ tiếp cận dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, bảo hiểm xã hội.
Năm là, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ và đẩy mạnh chuyển đổi số. Cụ thể, cần thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo để phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng sinh thái, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng. Xây dựng cơ sở dữ liệu số hóa về tài nguyên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, có cơ chế và chế tài cho việc cập nhật thường xuyên và phân quyền truy cập phù hợp. Tiếp tục triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng gắn với các mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn, bảo vệ môi trường và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bình Dương bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của các Bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương, Văn phòng Quốc gia giảm nghèo trong quá trình triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia của tỉnh trong thời gian qua. Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Bình Dương luôn tin tưởng và mong muốn các đồng chí sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ tỉnh Bình Dương kịp thời trong công tác xây dựng nông thôn mới trong thời gian tới để đạt được nhiều thành quả mới.
Danh mục tài liệu tham khảo
[1] Quyết định số 922/QĐ-TTg ngày 02/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.
[2] Quyết định số 924/QĐ-TTg ngày 02/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh giai đoạn 2021 - 2025.
[3] Kế hoạch số 3632/KH-UBND ngày 19/7/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Bình Dương giai đoạn 2021-2025.
[4] Kế hoạch số 893/KH-UBND ngày 28/02/2023 Triển khai thực hiện Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
[5] Kế hoạch số 1429/KH-UBND ngày 31/3/2024 triển khai thực hiện chương trình nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện tiêu chí an ninh trật tự trong xây dựng nông thôn mới 2021 – 2025.
[6] Công văn số 5388/UBND-KT ngày 24/9/2024 của UBND tỉnh về điều chỉnh, bổ sung kế hoạch thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
[7] Tài liệu Hội nghị tổng kết Các Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng Nông thôn mới, Giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2021-2025.