Đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số nhằm xây dựng Trường Chính trị chuẩn trong tình hình mới
Lê Minh Giao
Tóm tắt: Chuyển đổi số trong các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quá trình ứng dụng công nghệ kỹ thuật số vào hoạt động của nhà trường để nâng cao chất lượng quản lý, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay. Bài viết làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về chuyển đổi số, nội dung ứng dụng công nghệ số và đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu xây dựng trường chính trị chuẩn trong tình hình mới.
Từ khóa: Chuyển đổi số, Trường chính trị chuẩn
1. Đặt vấn đề
Quy định số 09-QĐ/TW ngày 13/11/2018 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nêu rõ: Trường chính trị cấp tỉnh có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về một số lĩnh vực khác; tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/20217 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng một yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đặt ra yêu cầu sắp xếp, tái cấu trúc, sáp nhập các trường chính trị, chuyển đổi số trong trường chính trị là cần thiết.
2. Nội dung
2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về chuyển đổi số
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư xác định: Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định nhiệm vụ, giải pháp: Tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, hiện đại hoá phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo.
Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp thứ hai Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. (Ảnh: Báo Nhân Dân).
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ ban hành nhiều văn bản đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp theo lộ trình, định hướng triển khai chuyển đổi số, xác định tầm nhìn tới năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.
2. Ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giảng dạy tại các trường chính trị
Thứ nhất, chuyển đổi số trong quản lý của nhà trường. Mục tiêu chuyển đổi số trong quản lý nhà trường là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhằm hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ của lãnh đạo nhà trường trong công tác quản lý số, đồng thời cung cấp hỗ trợ hiệu quả cho các bộ phận và cá nhân liên quan. Mục tiêu cuối cùng là đảm bảo, hoạt động quản lý và giảng dạy tại trường phát huy đầy đủ phẩm chất và năng lực của học viên, đồng thời đáp ứng mục tiêu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Để thực hiện điều này cần thiết lập một chiến lược toàn diện. Đầu tiên, hệ thống quản lý thông tin thông minh sẽ giúp tự động hóa việc cập nhật dữ liệu và tối ưu hóa quá trình phân công giảng viên dựa trên kĩ năng và kinh nghiệm. Sử dụng hệ thống quản lý học trực tuyến sẽ tạo ra môi trường học tập linh hoạt và theo dõi tiến trình học tập của học viên. Đồng thời, việc xây dựng một kênh truyền thông nội bộ trực tuyến sẽ giúp thông tin được chia sẻ nhanh chóng và hiệu quả.
Thứ hai, chuyển đổi số trong xây dựng và phát triển học liệu số. Học liệu số (hay học liệu điện tử) là tập hợp các phương tiện điện tử phục vụ dạy và học, bao gồm: Giáo trình điện tử, sách giáo khoa điện tử, tài liệu tham khảo điện tử, bài kiểm tra đánh giá điện tử, bản trình chiếu, bảng dữ liệu, các tệp âm thanh, hình ảnh, video, bài giảng điện tử, phần mềm dạy học, thí nghiệm mô phỏng và các học liệu được số hóa khác. Khi chuyển đổi số, các trường cần phát triển học liệu số để phục vụ giảng viên, người học khai thác, sử dụng cho việc giảng dạy, học tập trên môi trường số. Phát triển học liệu số cần xây dựng kho học liệu số và hệ thống phần mềm quản lý, phân phối và khai thác học liệu số.
Ngoài ra, hệ thống phần mềm cần kết nối các tài nguyên giáo dục mở để giảng viên và người học có thể khai thác, sử dụng. Tài nguyên giáo dục mở là tài liệu học tập, giảng dạy và nghiên cứu ở bất kỳ định dạng nào, có tính công cộng hoặc có bản quyền đã được phát hành theo giấy phép mở, cho phép truy cập, tái sử dụng, tích hợp, điều chỉnh, lưu giữ và phân phối lại bởi những người khác theo quy định của giấy phép mở. Cùng với phát triển học liệu số, các trường cần xây dựng thư viện số kết nối với Thư viện quốc gia, thư viện của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và thư viện của các trường trong và ngoài hệ thống để giảng viên, người học khai thác nguồn học liệu số và nguồn tài nguyên giáo dục mở, đa dạng.
Thứ ba, chuyển đổi số trong hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng. Lãnh đạo các trường chính trị chỉ đạo các khoa phòng chuyên môn tiếp tục đổi mới sinh hoạt chuyên môn, tập trung vào nghiên cứu bài giảng và trao đổi kinh nghiệm về phương pháp đánh giá học viên theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực, đồng thời đảm bảo tuân thủ các quy định của cấp trên. Các cán bộ quản lý và giảng viên sẽ thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và tổ chức kiểm tra, đánh giá học viên, hướng đến việc đa dạng hóa các hình thức kiểm tra và đánh giá để đảm bảo tính khách quan và công bằng.
Tổ chức xây dựng công cụ kiểm tra và đánh giá, cụ thể là ngân hàng kiểm tra - Inter được thực hiện hằng năm bởi các khoa chuyên môn của các trường. Điều này không chỉ bao gồm việc sử dụng ngân hàng đề Inter chung mà còn đòi hỏi giảng viên cập nhật, điều chỉnh và bổ sung vào ngân hàng đề kiểm tra của nhà trường. Việc xây dựng bảng đặc tả giúp tổ chức các hình thức kiểm tra một cách khoa học và đa dạng hóa nội dung ôn tập cho học viên.
Đổi mới nội dung, hình thức giảng dạy, kiểm tra và đánh giá là một phần quan trọng của quá trình đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị. Việc xây dựng đề kiểm tra và tổ chức kiểm tra chung cho các lớp khi thực hiện từ ma trận đến đề và hướng dẫn chấm sẽ giúp đảm bảo kết quả kiểm tra phản ánh học viên đúng phẩm chất và năng lực học tập của học viên của học viên. Ngoài ra, việc tổ chức các buổi hội thảo, tổng kết và đánh giá cũng như chỉ đạo thống nhất cách đánh giá bằng nhận xét kết quả học tập của học viên sẽ giúp cán bộ quản lý và giảng viên nắm vững yêu cầu đổi mới kiểm tra và đánh giá hiệu quả hơn.
Thứ tư, chuyển đổi số trong quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập học viên. Chuyển đổi số trong quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên có mục đích hỗ trợ lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo các khoa chuyên môn trong đánh giá trình độ và năng lực của học viên, từ đó chỉ đạo và đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường; giúp lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo các khoa chuyên môn thực hiện chuyển đổi số trong quản lý hoạt động kiểm tra và đánh giá học viên theo đúng mục tiêu và kế hoạch đã đề ra, có dự báo để điều chỉnh và bổ sung kế hoạch một cách linh hoạt; đánh giá chính xác trình độ và năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên, từ đó tạo động lực thúc đẩy hoạt động dạy - học của nhà trường và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; hỗ trợ các cấp quản lý qua việc kiểm tra để chỉ đạo, hướng dẫn, điều chỉnh, tư vấn nhằm khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm tra và đánh giá.
Để thực hiện chuyển đổi số trong quản lý kiểm tra và đánh giá học tập, một số giải pháp cụ thể có thể được áp dụng như sau: Xây dựng hệ thống quản lý đánh giá trực tuyến để giảng viên có thể dễ dàng tạo và quản lý bài kiểm tra, bài tập trên nền tảng số. Sử dụng phần mềm tự động hóa chấm điểm để giảm thời gian và công sức của giảng viên trong quá trình chấm bài. Tích hợp nền tảng học trực tuyến để giảng viên có thể tạo, phân phối và thu thập bài làm của học viên một cách thuận tiện, cung cấp phản hồi tức thì cho học viên và giảng viên. Sử dụng công nghệ để tổ chức và phân tích dữ liệu về kết quả học tập của học viên, xây dựng các bảng thống kê và báo cáo đa dạng để giảng viên đánh giá hiệu suất học tập của từng học viên và lớp học. Cải thiện hệ thống quản lý thông tin học viên để dễ dàng theo dõi lịch sử học tập, kết quả kiểm tra và tham gia hoạt động nghiên cứu thực tế, tích hợp với hệ thống tự động thông báo cho cơ quan quản lý học viên. Tổ chức các khóa đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật định kỳ để giảng viên làm quen và nâng cao kỹ năng sử dụng các công nghệ mới. Bằng cách này, chuyển đổi số trong quản lý kiểm tra và đánh giá học tập sẽ giúp tối ưu hóa quá trình này, tăng cường tính minh bạch và đảm bảo phản hồi nhanh chóng, chính xác cho học viên và giảng viên.
Thứ năm, chuyển đổi số trong quản lý công tác phối hợp của nhà trường, giảng viên với cơ quan có liên quan (cơ quan sử dụng học viên và cấp trên...). Công tác phối hợp giữa nhà trường với các cơ quan có liên quan là một phần quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị. Mục tiêu của công tác này là tạo ra sự công bằng và khách quan trong việc đánh giá học viên, đồng thời tăng cường sự quan tâm và cộng tác từ các cơ quan có liên quan. Để thực hiện mục tiêu này, một số biện pháp cụ thể có thể được áp dụng như: Sử dụng nền tảng học trực tuyến, ứng dụng di động giúp giảng viên chia sẻ tài liệu, thông tin về học tập của học viên một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Đồng thời, thông qua hệ thống thông báo tức thì, các cơ quan có liên quan có thể nhận được phản hồi về tiến trình học tập của học viên. Xây dựng hệ thống quản lý thông tin học viên là một biện pháp khác, giúp giảng viên và cơ quan quản lý sử dụng học viên có thể truy cập dễ dàng vào thông tin liên quan đến học tập và đánh giá. Việc phát triển website trực tuyến cho phép giảng viên chia sẻ lịch học và kế hoạch kiểm tra cũng như cung cấp thông tin đến cơ quan quản lý, sử dụng học viên về hoạt động học tập của học viên. Tạo ra hệ thống thống kê, báo cáo giúp giảng viên theo dõi tiến trình học tập của học viên và cung cấp báo cáo tổng hợp cho cơ quan quản lý, sử dụng học viên.

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định
phát triển của các quốc gia. (Ảnh: Báo điện tử Chính phủ).
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao ứng dụng chuyển đổi số trong trường chính trị hiện nay
Hiện nay, để đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong thời đại chuyển đổi số, các trường chính trị cần thực hiện toàn diện và đồng bộ các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cần xây dựng một hệ thống các Quy định, hướng dẫn chuyển đổi số về chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, phương pháp giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học, quy chế quản lý đào tạo hiện tại ở các trường chính trị nhằm đảm bảo thực hiện đồng bộ, khả thi và phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Điều này sẽ giúp thực hiện, cụ thể hóa có hiệu quả Quyết định số 214 - QĐ/TW Ngày 28/12/2024 của Ban Chấp hành Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trong đó nêu rõ: Các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, các trường được giao đào tạo cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị của Quân đội và Công an chịu sự hướng dẫn và thống nhất quản lý của Học viện về chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, phương pháp giảng dạy học tập, nghiên cứu khoa học, quy chế quản lý đào tạo.
Thứ hai, Tỉnh ủy, Thành ủy các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ tốt trong quá trình thực hiện chuyển đổi số. Trong bối cảnh cả nước đang đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, đặc biệt là Tỉnh ủy, Thành ủy, giữ vai trò then chốt. Các cấp ủy không chỉ định hướng chiến lược mà còn chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn lực và kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện.
Do đó, việc đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là nhiệm vụ cần thiết để tạo nền tảng cho chuyển đổi số toàn diện. Hạ tầng công nghệ thông tin là yếu tố cốt lõi, quyết định mức độ thành công của chuyển đổi số. Nếu coi chuyển đổi số là một quá trình vận hành thông minh thì hạ tầng công nghệ thông tin chính là “xương sống” để kết nối, lưu trữ, xử lý và truyền tải dữ liệu một cách an toàn, nhanh chóng và hiệu quả. Việc thiếu hụt hạ tầng hoặc thiếu sự đầu tư, không đồng bộ sẽ dẫn đến tình trạng triển khai chậm, thiếu kết nối và không đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Vì vậy, mỗi địa phương cần ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực trọng tâm như đầu tư nâng cấp hệ thống mạng, bảo đảm băng thông đủ lớn, kết nối ổn định; đầu tư vào các phần mềm quản lý đào tạo, thư viện, tài chính, nhân sự,…là những nhân tố giữ vai trò quan trọng trong việc tự động hóa các hoạt động quản lý, nâng cao hiệu quả công việc. Đặc biệt, đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị kĩ thuật hiện đại (máy tính, thiết bị phục vụ hội nghị trực tuyến,..) đây là những hạng mục không thể thiếu, các thiết bị này cần được đầu tư đồng bộ, có tính cập nhật để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của môi trường làm việc số hóa. Ngoài ra, cần xây dựng nền tảng học tập trực tuyến, phần mềm dạy và học hiệu quả, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số hiện nay.
Thứ ba, các trường chính trị cần xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về chuyển đổi số. Việc xây dựng, đề ra kế hoạch sẽ giúp xác định cụ thể nhiệm vụ, mục tiêu rõ ràng, đảm bảo thực hiện có hiệu quả trong từng giai đoạn nhất định. Để làm được điều này, trước hết các trường chính trị cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn thể cán bộ viên chức, đội ngũ giảng viên và người học trong việc tự học tập, rèn luyện kỹ năng cần thiết về chuyển đổi số, ứng dụng phần mềm vào công tác quản lý, giảng dạy và học tập. Đồng thời, đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị hiện đại, phần mềm, hạ tầng công nghệ thông tin, đường truyền kết nối và thực hiện số hóa quy trình quản lý, xây dựng hệ thống thông tin trong quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường.
Đối với đội ngũ giảng viên cần thường xuyên trau dồi, sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực trong học trực tuyến, thành thạo các thao tác, công cụ hỗ trợ giảng dạy. Bên cạnh đó, nhà trường cần tạo ra môi trường học tập trực tuyến, các ứng dụng học tập, cung cấp tài liệu học tập số, các phần mềm hỗ trợ học tập, nghiên cứu khoa học bằng công cụ số hóa, ứng dụng phần mềm trong công tác quản lý đào tạo, theo dõi quá trình học tập của học viên,…
4. Kết luận
Trong giai đoạn hiện nay, việc đẩy mạnh công tác chuyển đổi số ở các trường chính trị là nhiệm vụ cần thiết, quan trọng và cấp bách để từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn của nhà trường, từ đó đáp ứng các yêu cầu trong việc xây dựng trường chính trị chuẩn trong tình hình mới./.