Khoa học và công nghệ Bình Dương: 45 năm phát triển - Dấu ấn sự kiện, thành tựu và khát vọng tương lai
Trải qua 45 năm hình thành và phát triển, Ngành khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương đã không ngừng đổi mới, đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng sống của người dân và khẳng định vị thế của địa phương trên bản đồ đổi mới sáng tạo quốc gia, quốc tế. Từ một vùng đất nông nghiệp, Bình Dương đã vươn lên thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, đổi mới sáng tạo hàng đầu, trở thành hình mẫu về phát triển bền vững dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
I. Giai đoạn 1980 - 1996: Đặt nền móng cho phát triển khoa học và công nghệ
Năm 1980, ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) tỉnh Sông Bé, nay là Bình Dương, chính thức được thành lập, đánh dấu bước khởi đầu quan trọng cho công cuộc phát triển khoa học kỹ thuật tại địa phương. Đây là thời điểm đất nước còn đang trong giai đoạn khó khăn, với nhiều thách thức về kinh tế và xã hội sau chiến tranh, nhưng Bình Dương đã chủ động xây dựng hệ thống tổ chức quản lý KH&CN, đồng thời phát động các phong trào thi đua sáng kiến và hội thi sáng tạo kỹ thuật. Những hoạt động này không chỉ thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà còn góp phần đổi mới tư duy sản xuất và quản lý trong toàn tỉnh.
Các hội thi sáng tạo kỹ thuật và phong trào phát huy sáng kiến trong thanh niên, công nhân viên chức đã trở thành nét đặc sắc, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đây chính là những bước đi đầu tiên giúp hình thành nền tảng cho sự phát triển KH&CN tại Bình Dương, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của KH&CN trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn này, tỉnh đã xây dựng được các tổ chức quản lý KH&CN cấp tỉnh, đồng thời thiết lập hệ thống thông tin KH&CN nhằm phục vụ công tác quản lý và truyền thông về khoa học kỹ thuật.
Song song với đó, Bình Dương đã triển khai nhiều mô hình sản xuất thử nghiệm, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp, như phát triển các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất và chất lượng cao hơn. Những ứng dụng này không chỉ góp phần gia tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp mà còn trực tiếp cải thiện đời sống người dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế địa phương. Bên cạnh đó, công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ kỹ thuật cũng được chú trọng, nhằm xây nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển KH&CN trong các giai đoạn tiếp theo.
Với sự gắn bó chặt chẽ của Ngành KH&CN với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giai đoạn này đã mang lại tác động thực tiễn rõ rệt. Nhận thức về vai trò then chốt của KH&CN trong đời sống và sản xuất được nâng cao đáng kể, thúc đẩy sự chuyển biến tích cực trong tư duy và việc ứng dụng các công nghệ mới. Đây là những bước đi chiến lược, tạo tiền đề vững chắc cho Bình Dương bứt phá mạnh mẽ trong tương lai, chuyển mình từ một tỉnh thuần nông thành một trung tâm công nghiệp và đổi mới sáng tạo hàng đầu của khu vực.
II. Giai đoạn 1997 - 2010: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bứt phá hạ tầng KH&CN
Giai đoạn 1997 - 2010 là thời kỳ Bình Dương chuyển mình mạnh mẽ, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển hạ tầng KH&CN. Sau khi tái lập tỉnh vào ngày 01/01/1997, Bình Dương đã kế thừa và phát huy thành quả của tỉnh Sông Bé, đồng thời xác định rõ KH&CN là động lực then chốt để phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh đã chủ động hoạch định các chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp, xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đầu tư đồng bộ vào hạ tầng kỹ thuật, tạo môi trường thông thoáng thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển kinh tế có chiều sâu và bền vững.
Những con số tăng trưởng ấn tượng đã minh chứng rõ nét cho sự bứt phá của Bình Dương trong giai đoạn này. Nếu như năm 1997, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh chỉ khoảng 4.000 tỷ đồng, thì đến năm 2010, con số này đã đạt 117.000 tỷ đồng, tăng gấp gần 30 lần chỉ sau hơn một thập kỷ. Đặc biệt, đến cuối năm 2015, giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng lên 217.211 tỷ đồng, gấp 54,6 lần so với năm 1997. Cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ: từ tỷ lệ công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp là 50,45% - 26,8% - 22,8% năm 1997, đến năm 2010 đã đạt 62,2% - 33,7% - 4,1% và tiếp tục được duy trì, củng cố trong những năm sau đó. Tỷ lệ đô thị hóa tăng nhanh, từ 24% năm 1997 lên đến 85% vào năm 2015, phản ánh rõ nét sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống đô thị và hạ tầng kỹ thuật.
Một trong những dấu ấn lớn nhất của giai đoạn này là sự phát triển vượt bậc của hệ thống các khu công nghiệp tập trung. Nếu những ngày đầu tái lập tỉnh chỉ có vài khu công nghiệp, thì đến năm 2010, Bình Dương đã có 28 khu công nghiệp và 8 cụm công nghiệp với tổng diện tích gần 10.000 ha, cùng với Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương quy mô 4.196 ha. Các khu công nghiệp trọng điểm như Sóng Thần I, Sóng Thần II, Bình Đường, Việt Hương… đã đi vào hoạt động, thu hút hàng nghìn dự án đầu tư trong và ngoài nước, góp phần đưa Bình Dương trở thành một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút FDI. Cụ thể, đến năm 2012, tỉnh đã thu hút hơn 13.000 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 91.000 tỷ đồng (tăng 10 lần so với năm 1997) và hơn 2.000 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 14,58 tỷ USD (tăng 12 lần so với ngày đầu tái lập tỉnh).
Song song với phát triển công nghiệp, lĩnh vực dịch vụ - thương mại cũng có bước tiến vượt bậc, trở thành ngành kinh tế lớn thứ hai của tỉnh, chiếm tỷ trọng hơn 33% trong GDP. Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1996 - 2005 tăng bình quân 35,1%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 22,9%/năm, gấp 2,8 lần năm 2005, trong khi kim ngạch nhập khẩu tăng 24,7%. Thu nhập bình quân đầu người cũng tăng trưởng ấn tượng, từ 5,8 triệu đồng năm 1997 lên 36,9 triệu đồng năm 2012, gấp hơn 6 lần chỉ sau 15 năm. Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Bình Dương đạt 72,3 triệu đồng, gấp 2,29 lần mức bình quân chung của cả nước.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh đã đẩy mạnh các chương trình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, ứng dụng giống cây trồng, vật nuôi mới, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Nhờ đó, năng suất và chất lượng sản phẩm tăng lên đáng kể, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm mạnh từ 22,8% năm 1997 xuống chỉ còn 4,1% năm 2010, phù hợp với định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hạ tầng kỹ thuật, giao thông, điện, nước, viễn thông được đầu tư đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao chất lượng sống của người dân. Các dự án trọng điểm như thành phố mới Bình Dương, trung tâm hành chính tập trung, các trường đại học quốc tế, khu dịch vụ cao cấp… đã góp phần thay đổi diện mạo đô thị, xây dựng nền tảng cho phát triển bền vững lâu dài. Đặc biệt, phát triển công nghiệp và đô thị hóa đã kéo theo sự gia tăng dân số cơ học mạnh mẽ, từ 700.000 người năm 1997 lên hơn 1,8 triệu người năm 2014, tạo nên một lực lượng lao động dồi dào, trẻ trung và năng động cho tỉnh.
Giai đoạn này cũng ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống giáo dục và đào tạo, với tỷ lệ phổ cập giáo dục các cấp ngày càng cao, nhiều trường học đạt chuẩn quốc gia, góp phần nâng cao trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. Đây là yếu tố then chốt giúp Bình Dương tiếp tục bứt phá trong các giai đoạn phát triển tiếp theo, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học về phát triển khu công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng KH&CN trong sản xuất, phát triển đô thị, bảo vệ môi trường… được tổ chức thường xuyên, quy tụ nhiều chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp trong và ngoài nước, thúc đẩy trao đổi tri thức, hợp tác và đổi mới sáng tạo.
Nhìn lại, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng công nghiệp, phát triển hạ tầng KH&CN và đô thị hóa đã tạo ra bước nhảy vọt cho Bình Dương, đưa tỉnh từ một địa phương thuần nông trở thành trung tâm công nghiệp hiện đại, năng động, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Thành tựu của giai đoạn này không chỉ là những con số tăng trưởng ấn tượng, mà còn là nền tảng vững chắc cho các chiến lược phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong những thập niên tiếp theo.
III. Giai đoạn 2011 - 2020: Đổi mới sáng tạo và xây dựng thành phố thông minh
Giai đoạn 2011 - 2020 là thời kỳ Bình Dương khẳng định vị thế tiên phong trong đổi mới sáng tạo và xây dựng thành phố thông minh, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững, thích ứng với xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ngay từ đầu giai đoạn, Bình Dương đã xác định đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ là động lực phát triển chủ đạo. Tỉnh chủ động triển khai hàng loạt chương trình, đề án lớn, trong đó nổi bật là Đề án “Vùng đổi mới sáng tạo Bình Dương” và Đề án xây dựng Thành phố thông minh Bình Dương (Binh Duong Smart City). Đề án “Vùng đổi mới sáng tạo Bình Dương” được nghiên cứu, xây dựng dựa trên mô hình phát triển của các vùng đổi mới sáng tạo hàng đầu thế giới, với mục tiêu chuyển đổi Bình Dương từ một vùng đô thị công nghiệp sang vùng đổi mới sáng tạo bền vững, lấy khoa học, công nghệ và tri thức làm nền tảng. Đề án này tích hợp các khu vực trọng điểm như TP.Thủ Dầu Một, thành phố mới Bình Dương, khu công nghiệp KH&CN Bàu Bàng, các khu làm việc, đô thị, hệ thống giao thông công cộng và logistics hiện đại.
Song song đó, năm 2016, Bình Dương chính thức phê duyệt Đề án xây dựng Thành phố thông minh với sự hợp tác chiến lược từ thành phố Eindhoven (Hà Lan) và tập đoàn Brainport. Đề án hướng đến mục tiêu phát triển vùng thông minh Bình Dương theo tiêu chí quốc tế, lấy thành phố mới Bình Dương (quy mô 4.196 ha) làm hạt nhân, liên kết các đô thị vệ tinh như Thủ Dầu Một, Thuận An, Dĩ An, Tân Uyên và Bến Cát. Các chương trình hành động cụ thể được xây dựng trên bốn lĩnh vực: lao động - con người, công nghệ (R&D), doanh nghiệp và các yếu tố nền tảng như hạ tầng, môi trường, chất lượng sống. Mô hình hợp tác “ba nhà” (Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhà trường) được vận dụng sáng tạo, phát huy tối đa nguồn lực xã hội, tạo nên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện.
Những nỗ lực này đã mang lại kết quả rõ nét. Trong giai đoạn 2011 - 2020, kinh tế Bình Dương duy trì tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 8,5%/năm - thuộc nhóm cao nhất cả nước. GRDP/người năm 2015 đạt 4.660 USD/người, đến năm 2020 tăng lên 7.665 USD/người, cao gấp 2,6 lần mức bình quân cả nước. Số lượng doanh nghiệp trên địa bàn tăng gấp đôi, từ hơn 20.000 doanh nghiệp năm 2016 lên gần 44.000 doanh nghiệp vào năm 2020. Các huyện phía bắc như Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên, Phú Giáo… lần lượt công nghiệp hóa mạnh mẽ, trong khi phía nam, Thủ Dầu Một vươn lên thành đô thị loại I, Dĩ An và Thuận An được công nhận là thành phố trực thuộc tỉnh.
Bình Dương cũng là địa phương đi đầu cả nước về xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Hàng loạt trung tâm đổi mới sáng tạo, phòng thực nghiệm công nghệ (TechLab, FabLab), vườn ươm doanh nghiệp, các chương trình giáo dục hiện đại như STEM/STEAM được triển khai mạnh mẽ. Trung tâm Điều hành Thông minh, EIU Campus với Vườn ươm Doanh nghiệp Becamex, Trung tâm sản xuất tiên tiến, Trung tâm thương mại thế giới WTC đã hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho khởi nghiệp, nghiên cứu, phát triển công nghệ mới và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đặc biệt, Bình Dương đã ghi dấu ấn trên bản đồ đổi mới sáng tạo quốc tế khi liên tục được Diễn đàn Cộng đồng Thông minh Thế giới (ICF) vinh danh trong Top 21 đô thị thông minh tiêu biểu toàn cầu (Smart21) và nhiều năm liền vào Top 7 thành phố thông minh có chiến lược phát triển nổi bật nhất thế giới. Thành công này không chỉ nâng cao vị thế của tỉnh mà còn mở ra nhiều cơ hội hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư công nghệ cao và các tập đoàn đa quốc gia đến nghiên cứu, sản xuất tại Bình Dương.
Năm 2012, Bình Dương là một trong những địa phương đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỉnh đã ban hành nhiều chương trình lớn thúc đẩy KH&CN, đổi mới sáng tạo, gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đến năm 2020, Bình Dương đã xây dựng được nền tảng kinh tế tri thức, phát triển mạnh kinh tế số, chính quyền số, xã hội số, từng bước chuyển mình thành vùng đổi mới sáng tạo bền vững thay vì chỉ là vùng đô thị công nghiệp như trước đây.
Trong lĩnh vực công nghiệp thông minh, Bình Dương tiếp tục phát triển các khu công nghiệp kiểu mẫu như VSIP III (1.000 ha), tích hợp công nghệ quản lý thông minh, sử dụng năng lượng, nước, chất thải tối ưu, thu hút các dự án lớn như LEGO (trên 1 tỷ USD), Pandora (100 triệu USD) và hơn 40 tập đoàn, công ty trong và ngoài nước, tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động chất lượng cao.
Những thành tựu nổi bật về đổi mới sáng tạo và xây dựng thành phố thông minh trong giai đoạn 2011 - 2020 đã đặt nền móng vững chắc để Bình Dương tiếp tục bứt phá trong thập kỷ tiếp theo, hướng đến mục tiêu trở thành đô thị thông minh, trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực và quốc tế.
IV. Giai đoạn 2021 - 2025: Đột phá chuyển đổi số, công nghiệp công nghệ cao và hội nhập quốc tế
Giai đoạn 2021 - 2025 là thời kỳ Bình Dương tạo ra những đột phá lớn về chuyển đổi số, phát triển công nghiệp công nghệ cao và hội nhập quốc tế, đưa tỉnh tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo và công nghiệp hiện đại hàng đầu khu vực. Ngay từ đầu giai đoạn, Bình Dương xác định công nghiệp tiếp tục là động lực tăng trưởng chính, đồng thời chú trọng hiện đại hóa các ngành hiện hữu, tăng tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp hỗ trợ, phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, xây dựng nền kinh tế tri thức, kinh tế số và kinh tế xanh.
Một dấu ấn nổi bật là việc triển khai hàng loạt dự án trọng điểm về hạ tầng công nghệ cao. Tháng 10/2024, Bình Dương công bố kế hoạch phát triển Khu công nghiệp công nghệ cao quy mô 220 ha, định hướng thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực bán dẫn, sản xuất thông minh và công nghệ cao. Đặc biệt, ngày 09/5/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Khu công nghệ thông tin tập trung Bình Dương với quy mô 15,47 ha tại phường Hòa Phú, TP.Thủ Dầu Một, nằm trong Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương. Khu này sẽ trở thành đầu mối phát triển công nghiệp CNTT, bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu - phát triển, đào tạo nhân lực chất lượng cao, sản xuất phần mềm, nội dung số và cung cấp dịch vụ CNTT. Các doanh nghiệp đầu tư vào khu này được hưởng nhiều chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, nghiên cứu và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số toàn diện.
Song song với phát triển công nghiệp công nghệ cao, Bình Dương đặc biệt chú trọng chuyển đổi số trên mọi lĩnh vực. Năm 2022, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về chuyển đổi số tỉnh Bình Dương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, xác định chuyển đổi số là “chìa khóa” để chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các trụ cột chuyển đổi số gồm chính quyền số, kinh tế số, công dân số và xã hội số. Tỉnh đã triển khai Trung tâm Giám sát điều hành thông minh (IOC), xây dựng hệ thống dữ liệu lớn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), Big Data vào quản lý, điều hành, phục vụ doanh nghiệp và người dân, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng năng suất lao động và chất lượng dịch vụ công.
Đặc biệt, việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã tạo động lực mạnh mẽ cho Bình Dương. Nghị quyết này nhấn mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu và đưa đất nước phát triển bứt phá trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết đặt ra các nhiệm vụ then chốt như hoàn thiện thể chế, tháo gỡ rào cản, tăng cường đầu tư hạ tầng số, phát triển nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, đưa thể chế thành lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Những kết quả đạt được trong chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo được thể hiện rõ qua các chỉ số quốc gia: năm 2023, Bình Dương đứng thứ 8 cả nước về chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII), đạt 48,64 điểm, đứng thứ ba trong vùng Đông Nam Bộ và dẫn đầu về số lượng các chỉ số thành phần đổi mới sáng tạo với 7/52 chỉ số dẫn đầu. Tỉnh cũng giữ vững vị trí là địa phương dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xếp thứ hai cả nước sau TP.HCM, với 4.399 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký trên 42,4 tỷ USD, chiếm khoảng 8,5% tổng vốn FDI của cả nước tính đến tháng 3/2025.
Bình Dương còn tiên phong ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, hướng tới mục tiêu đến năm 2025 đưa tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm trên 30%, diện tích đất trồng nông sản đạt tiêu chuẩn GAP chiếm 20%, số trang trại chăn nuôi đạt chứng nhận GAHP chiếm 30%. Tính đến hết năm 2021, tỷ lệ ứng dụng công nghệ cao ở các loại cây trồng chủ lực đạt gần 56%, ở chăn nuôi là hơn 63%.
Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo với sự tham gia của các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm sáng tạo và doanh nghiệp công nghệ. Trường Đại học Quốc tế Miền Đông, Đại học Thủ Dầu Một, các trung tâm R&D, các khu công nghệ cao đã trở thành nơi đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh và khu vực, đáp ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ của công nghiệp 4.0.
Với tầm nhìn chiến lược đến năm 2050, Bình Dương hướng tới trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, công nghiệp hiện đại hàng đầu khu vực Đông Nam Á, xây dựng hệ sinh thái số toàn diện, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện chất lượng sống cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Những thành tựu, chỉ số và dự án trọng điểm trong giai đoạn 2021 - 2025 đã và đang khẳng định vai trò đầu tàu của Bình Dương trong chuyển đổi số, phát triển công nghiệp công nghệ cao và hội nhập quốc tế, tạo nền tảng vững chắc cho bước phát triển đột phá trong những thập kỷ tới.
V. Dấu ấn sự kiện, thành tựu nổi bật và tác động thực tiễn
Trong hành trình 45 năm phát triển, Ngành KHCN Bình Dương đã ghi dấu bằng hàng loạt sự kiện, thành tựu nổi bật và tạo ra những tác động thực tiễn sâu rộng cho kinh tế - xã hội địa phương. Một trong những dấu ấn nổi bật nhất là việc Bình Dương liên tục được vinh danh trên trường quốc tế về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tỉnh nhiều năm liền nằm trong Top các địa phương dẫn đầu cả nước về chỉ số đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, được Diễn đàn Cộng đồng Thông minh Thế giới (ICF) vinh danh, tiêu biểu là đạt Top 1 năm 2023. Mô hình 3 nhà gắn kết “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp” cùng hợp tác quốc tế đã trở thành đặc trưng của Bình Dương, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, xây dựng thành phố thông minh và kinh tế số.
Hạ tầng KH&CN và đổi mới sáng tạo của tỉnh được đầu tư đồng bộ, hiện đại, với nhiều khu công nghệ thông tin tập trung, khu công nghiệp khoa học công nghệ, trung tâm nghiên cứu, vườn ươm, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo. Tiêu biểu là Khu công nghiệp Khoa học Công nghệ Bàu Bàng, các trung tâm khám phá khoa học, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Phú Giáo, Bắc Tân Uyên, khu lâm nghiệp công nghệ cao tại Dầu Tiếng, các trung tâm đổi mới sáng tạo tại Dĩ An, Thủ Dầu Một, Bàu Bàng… Tỉnh cũng hình thành các trung tâm hợp tác quốc tế như Block71 (liên kết với Đại học Quốc gia Singapore), Trung tâm Đổi mới sáng tạo Việt Nam - Singapore, Trung tâm Thương mại Thế giới WTC Thành phố mới Bình Dương, góp phần đưa Bình Dương trở thành điểm đến hấp dẫn của các tập đoàn công nghệ, nhà đầu tư quốc tế.
Thành tựu của Ngành KH&CN Bình Dương còn thể hiện rõ qua việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ tiên tiến trong công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Việc phát triển các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu trình diễn, thực nghiệm, chuyển giao tiến bộ KH&CN đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, gia tăng giá trị gia tăng cho các ngành kinh tế chủ lực. Các doanh nghiệp địa phương ngày càng chủ động đầu tư nghiên cứu, đổi mới công nghệ, phối hợp với các viện, trường triển khai nhiều đề tài, dự án giải quyết các vấn đề thực tiễn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đặc biệt, Đề án Thành phố thông minh Bình Dương là minh chứng tiêu biểu cho việc lồng ghép KH&CN vào chiến lược phát triển chung, tạo ra bước đột phá về kinh tế - xã hội. Sự thành công của mô hình này đã được các tổ chức quốc tế đánh giá cao, trở thành hình mẫu tham khảo cho nhiều địa phương trong và ngoài nước.
Tác động thực tiễn của các sự kiện, thành tựu KH&CN Bình Dương không chỉ dừng lại ở tăng trưởng kinh tế, mà còn góp phần nâng cao chất lượng sống, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư và hội nhập quốc tế sâu rộng. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển mạnh mẽ, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, các chương trình hợp tác quốc tế đã tạo nên một cộng đồng sáng tạo năng động, sẵn sàng thích ứng với những thách thức và cơ hội của thời đại mới.
Nhìn lại chặng đường đã qua, những dấu ấn sự kiện, thành tựu nổi bật và tác động thực tiễn của ngành KH&CN Bình Dương chính là nền tảng vững chắc để tỉnh tiếp tục bứt phá, khẳng định vai trò đầu tàu về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển bền vững trong những thập kỷ tới
Kết luận
Nhìn lại chặng đường 45 năm phát triển, Ngành KHCN Bình Dương đã khẳng định vai trò là động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hiện đại hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của địa phương. Từ những bước đi ban đầu còn nhiều khó khăn, đến nay KH&CN đã trở thành nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, hội nhập quốc tế và xây dựng thành phố thông minh, kinh tế số và kinh tế tri thức.
Sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Trung ương thành các chương trình, đề án, nghị quyết phù hợp với điều kiện địa phương đã tạo nên hành lang pháp lý vững chắc, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và tạo niềm tin cho doanh nghiệp, người dân đối với bộ máy chính quyền. Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 xác định rõ mục tiêu đưa Bình Dương trở thành địa phương dẫn đầu về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong khu vực, phát triển mạnh hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, xây dựng các khu công nghệ thông tin tập trung, khu công viên khoa học - công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo, gắn kết chặt chẽ “ba nhà” (Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp).
Trong bối cảnh mới, với khát vọng vươn lên mạnh mẽ, Bình Dương tiếp tục đặt KH&CN và đổi mới sáng tạo là trụ cột phát triển. Tỉnh kiên định mục tiêu trở thành địa phương dẫn đầu về khoa học - công nghệ, một trung tâm công nghiệp công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Mục tiêu này được thể hiện qua việc tiếp tục triển khai các chương trình lớn về nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, phát triển tài sản trí tuệ, và thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Bình Dương cũng chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ phát triển KH&CN, ưu tiên các lĩnh vực công nghệ nền tảng và đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện.
Đặc biệt, việc hợp nhất với TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu để hình thành siêu đô thị mới của vùng Đông Nam Bộ là một bước ngoặt chiến lược, đã và đang được triển khai nhằm kiến tạo động lực tăng trưởng mới. Đây là chủ trương lớn của Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, nhằm kiến tạo động lực tăng trưởng mới, đưa TP.HCM trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và logistics có khả năng cạnh tranh với các siêu đô thị hàng đầu Châu Á. Đồng thời, việc hợp nhất còn mở rộng không gian phát triển, tối ưu hóa nguồn lực và tăng cường liên kết vùng, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Bộ Chính trị.
2. Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 19/5/2022, về chuyển đổi số tỉnh Bình Dương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Dương.
3. Quyết định số 742/QĐ-UBND, ngày 25/3/2022, Chương trình phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển đô thị thông minh trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2040, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương
4. Quyết định số 890/QĐ-TTg, ngày 09/5/2025, về việc thành lập Khu công nghệ thông tin tập trung Bình Dương, Thủ tướng Chính phủ.
5. Nghị quyết về chủ trương hợp nhất Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ngày 18/4/2025, Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Lý luận Chính trị. (2022, 30 tháng 9). Bình Dương phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm bứt phá về kinh tế - xã hội. Truy cập từ https://lyluanchinhtri.vn/binh-duong-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-nham-but-pha-ve-kinh-te-xa-hoi-1189.html
7. Kiểm sát Online. (2024, 18 tháng 9). Bài 2: Quy hoạch tích hợp tỉnh Bình Dương - Phát triển bền vững từ tầm nhìn khoa học công nghệ. Truy cập từ https://kiemsat.vn/bai-2-quy-hoach-tich-hop-tinh-binh-duong-phat-trien-ben-vung-tu-tam-nhin-khoa-hoc-cong-nghe-69379.html
8. Báo Bình Dương. (2025, 2 tháng 3). Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ. Truy cập từ https://baobinhduong.vn/thuc-day-doi-moi-sang-tao-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-a325767.html
9. Báo Bình Dương. (2025, 6 tháng 3). Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đáp ứng nhu cầu thời kỳ mới. Truy cập từ https://baobinhduong.vn/xay-dung-he-sinh-thai-doi-moi-sang-tao-dap-ung-nhu-cau-thoi-ky-moi-a331402.html
10. Báo Bình Dương. (2025, 18 tháng 5). Khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo: Kiến tạo phát triển bền vững. Truy cập từ https://baobinhduong.vn/khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-kien-tao-phat-trien-ben-vung-a347070.html
11. Báo Bình Dương. (2025, 19 tháng 5). Bình Dương hướng đến thành nơi hội tụ đổi mới sáng tạo, Báo Bình Dương. https://baobinhduong.vn/binh-duong-huong-den-thanh-noi-hoi-tu-doi-moi-sang-tao-a346644.html