Nông nghiệp Bình Dương và các giai đoạn bước ngoặt trong chuyển đổi cơ cấu
Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, được Trung ương xác định là Tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với diện tích tự nhiên là 2.694,43 km2 (chiếm 0,83% diện tích cả nước, 12% diện tích vùng Đông Nam bộ). Là tỉnh có địa hình tương đối bằng phẳng, hệ thống sông ngòi bao quanh. Khí hậu mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm với 2 mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ khoảng tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm 1800 mm đến 2000 mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,50C, ít bão lũ, nơi có nhiều tài nguyên, khoáng sản phi kim loại.
Trong gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn Bình Dương đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn cùng với quá trình phát triển của đất nước. Năm 1997, Bình Dương từ một tỉnh nghèo còn dựa vào nông nghiệp, đến năm 2025 tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2,86% trong cơ cấu kinh tế của Tỉnh. Tuy trong cơ cấu chiếm tỷ trọng thấp, nhưng đây là ngành luôn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định qua các năm, giai đoạn 1997-2021 bình quân tăng 2,93%/năm. Trong đó, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng 3,1%/năm, ngành lâm nghiệp tăng 2,03%/năm, ngành thủy sản tăng 10,73%/năm. Qui mô giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo giá hiện hành tăng dần, từ 1.424 tỷ đồng năm 1997 tăng lên 23.949 tỷ đồng năm 2021, tăng gấp 16,81 lần năm 1997.
Nông nghiệp là ngành sản xuất có vai trò cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã hội; làm thị trường tiêu thụ của dịch vụ và công nghiệp; tham gia vào xuất khẩu mang lại ngoại tệ cho nền kinh tế và là ngành sản xuất chủ yếu tham gia bảo vệ môi trường. Để phát triển ngành sản xuất nông nghiệp. Quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp ngoài mục tiêu tăng sản lượng và năng suất sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Để quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững trong các nguồn lực giới hạn về đất đai, lao động, vốn và khoa học công nghệ của mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội.
Các giải pháp chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp để (tăng hoặc giảm) về quy mô, giá trị của các chuyên ngành sản xuất thuộc ngành nông nghiệp theo hướng thích ứng nhiều hơn với nhu cầu thị trường đồng thời phát huy được lợi thế so sánh của từng chuyên ngành, tạo ra cơ cấu ngành nông nghiệp mang tính ổn định cao hơn và phát triển bền vững hơn và các giải pháp tái cơ cấu ngành nông nghiệp được triển khai để tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực các yếu tố đầu vào trong sản xuất nông nghiệp và phát triển liên kết chuỗi giá trị sản phẩm đối với các ngành hàng có lợi thế so sánh, xây dựng các mối liên kết giữa các chủ thể càng chặt chẽ càng tốt và liên kết càng dài càng tốt.

Trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, Bám sát Nghị quyết 26, Tỉnh ủy Bình Dương đã ban hành và triển khai quyết liệt nhiều chương trình hành động, chẳng hạn như Chương trình hành động số 14-CTrHĐ/TU ngày 22/7/2002, Chương trình hành động số 77-CTHĐ/TU ngày 15/10/2008, Quyết định số 2083/QĐ-UBND ngày 22/7/2011, Quyết định số 3265/QĐ-UBND ngày 25/11/2016,… Tỉnh thường xuyên cập nhật các chương trình, thích ứng với yêu cầu mới của từng giai đoạn, một số cột mốc đánh dấu sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp có thể kể đến như:
Trước đây từ nền sản xuất nông nghiệp của tỉnh (trước năm 1997 là tỉnh Sông Bé, sau năm 1997 là tỉnh Bình Dương) còn manh mún, nhỏ lẻ với các loại cây trồng, vật nuôi theo đặc điểm sinh thái từng khu vực. Hầu hết nguồn giống của các mô hình sản xuất đều là giống tại địa phương và sản phẩm làm ra để làm nguồn lương thực, thực phẩm phục vụ cho gia đình. Đối tượng sản xuất phổ biến như cây lương thực: lúa, bắp, khoai; cây công nghiệp ngắn ngày: mía, đậu,…, cây ăn quả đặc sản, bản địa như măng cụt, sầu riêng, dâu, bòn bon, bưởi,…. và cao su của các nông, lâm trường trên địa bàn tỉnh; ngành chăn nuôi chủ yếu phục vụ nhu cầu thực phẩm của gia đình đối với heo, gà, vịt.
Khoảng cuối những năm 1990 đến đầu những năm 2000, từ chính sách phát triển kinh tế trang trại tạo điều kiện phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn, tạo ra nhiều quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tạo điều kiện phát triển các mô hình sản xuất thâm canh từ các chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể như chương trình phát triển cây lâu năm: cây công nghiệp (cao su tiểu điền, điều, tiêu…), cây ăn quả (nhãn, xoài, bưởi, sầu riêng,..); Chương trình phát triển chăn nuôi (chăn nuôi heo, chăn nuôi gà, chăn nuôi bò thịt,…).
Giai đoạn 2007 đến năm 2012: Bên cạnh việc áp dụng nhiều kỹ thuật thâm canh trong sản xuất trồng trọt và chăn nuôi như ứng dụng giống lai, quy trình kỹ thuật trong chăm sóc và phòng bệnh, năng suất cây trồng, vật nuôi được phát triển tốt. ngành chăn nuôi Bình Dương bắt đầu phát triển rất nhanh, đặc biệt là ngành chăn nuôi heo. Cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi phát triển ổn định và ngày càng định hình theo quy hoạch. Cây công nghiệp lâu năm được xem là loại cây trồng chủ lực của tỉnh, bình quân giá trị sản xuất cây công nghiệp lâu năm chiếm tỷ lệ gần 90% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt, chiếm 43% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Trong đó, cây cao su chiếm tỷ trọng lớn (95%) trong tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm.
Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016 là giai đoạn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nền nông nghiệp đô thị Bình Dương, quá trình phát triển công nghiệp và đô thị đã tạo ra các vùng nông nghiệp có quy mô diện tích nhỏ, tiếp giáp các vùng đô thị cộng với nguồn lao động nông nghiệp và các tiềm lực từ vốn, khoa học công nghệ của quá trình phát triển công nghiệp, đô thị đã tạo cơ hội cho ngành nông nghiệp đô thị Bình Dương phát triển. Sản phẩm của ngành tương đối đa dạng như trồng rau (rau nhà màng, rau nhà lưới, rau thủy canh, rau khí, Aquaponis,…), hoa (hoa truyền thống: vạn thọ, hoa huệ, lay ơn, cúc,.., hoa mai; hoa lan), kiểng (bon sai, cây cảnh, sứ kiểng,…) đến sản xuất cá cảnh, trồng trang trí hồ thủy sinh,… các mô hình tiên phong của giai đoạn này đã bắt đầu định hình, chọn lọc các sản phẩm có lợi thế phát triển trên địa bàn tỉnh đến nay.
Giai đoạn từ 2014 đến 2020 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ các loại cây ăn quả có múi trên địa bàn tỉnh, các loại cam, quýt, bưởi da xanh phát triển mạnh ở vùng Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng. Cùng với đó là sự hình thành các vùng chuyên canh các loại cây ăn quả xuất khẩu như chuối và các loại cây trồng mới như dưa lưới, nấm (bào ngư, linh chi, đông trùng hạ thảo)… Có thể nói bằng các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp đô thị (Quyết định số 46/20112/QĐ-UBND năm 2012, Quyết định số 04/2016/QĐ-UBND năm 2016, Nghị quyết số 09/2020/NQ-HĐND năm 2020) tỉnh đã tạo cú hích quan trọng trong phát triển các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp có chất lượng, đáp ứng nhu cầu các thị trường.

Bên cạnh ngành trồng trọt, nội bộ ngành chăn nuôi của tỉnh cũng có nhiều chuyển biến mạnh trong các mô hình tổ chức quản lý sản xuất, trọng tâm của nông nghiệp Bình Dương, là ngành mạnh mẽ đi đầu trong thúc đẩy hàm lượng công nghệ với 90% tổng đàn được chăn nuôi theo quy mô trạng trại (Trong đó khoảng 70% tổng đàn heo, gia cầm áp dụng phương thức nuôi trại kín, trại lạnh). Chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao tập trung ở 04 huyện phía Bắc, chủ yếu là heo và gà. Trang trại tư nhân và các Công ty đầu tư nổi bật là về chăn nuôi năng suất cao như: Trại Vĩnh Tân, Công ty 3F Việt, CP, CJ Vina, Japfa, CJ-Agri, Ba Huân, Emivest, Viet Swan,…
Từ tầm nhìn trên, ngành nông nghiệp thời gian tới đang phối hợp chặt chẽ các cơ quan ban ngành khác, tiến hành nghiên cứu, bổ sung, để đưa ra các kế hoạch phù hợp với thời kì mới, đáp ứng nhu cầu mới của người dân và doanh nghiệp. Một số định hướng lớn cho thời gian tới trong phát triển nông nghiệp như phát triển các kỹ thuật sản xuất nông nghiệp bền vững (nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn…); chuyển đổi số và đổi mới sang tạo, ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp; trong nội bộ ngành chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp, khai thác đa giá trị trong các mô hình sản xuất nông nghiệp và về giải pháp tiêu thụ phát triển các giải pháp thương mại điện tử.
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất để chọn lọc các ngành, các mô hình sản xuất có hiệu quả và bền vững là xu thế tất yếu. Để ngành sản xuất ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển hiệu quả trên địa bàn tỉnh, luôn cần sự đồng bộ và chiến lược, kế hoạch dài hạn. Trong đó, các chương trình nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn, cần sự đồng thuận của mọi người dân, sự chung sức của mọi thành phần kinh tế và vai trò quan trọng các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, các chương trình, các giải pháp hiệu quả đều cần xuất phát từ nhu cầu và năng lực thực tiễn của các chủ thể trực tiếp tham gia sản xuất. Từ đó có thể thấy, các bước ngoặt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp hiệu quả đều cần các chính sách hỗ trợ sát điều kiện, năng lực của các chủ thể ./.
Hương Thảo